AOI đồng hành cùng doanh nghiệp và nông dân nỗ lực vì sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững

 
𝐇𝐨̣̂𝐢 𝐧𝐠𝐡𝐢̣ 𝐬𝐨̛ 𝐤𝐞̂́𝐭 𝐭𝐫𝐢𝐞̂̉𝐧 𝐤𝐡𝐚𝐢 𝐭𝐡𝐮̛̣𝐜 𝐡𝐢𝐞̣̂𝐧 Đ𝐞̂̀ 𝐚́𝐧 𝐏𝐡𝐚́𝐭 𝐭𝐫𝐢𝐞̂̉𝐧 𝐍𝐨̂𝐧𝐠 𝐧𝐠𝐡𝐢𝐞̣̂𝐩 𝐡𝐮̛̃𝐮 𝐜𝐨̛   
𝐠𝐢𝐚𝐢 đ𝐨𝐚̣𝐧 𝟐𝟎𝟐𝟐-𝟐𝟎𝟐𝟓 𝐯𝐚̀ đ𝐢̣𝐧𝐡 𝐡𝐮̛𝐨̛́𝐧𝐠 đ𝐞̂́𝐧 𝐧𝐚̆𝐦 𝟐𝟎𝟑𝟎
 
Hội nghị sơ kết triển khai thực hiện Đề án Phát triển Nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022-2025 và định hướng đến năm 2030, ngày 02/8/2024, tại Sóc Trăng.
Viện AOI hợp tác với Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản - Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng xây dừng Đề án Phát triển Nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022-2025 và định hướng đến năm 2030. Quá trình xây dựng công phu, Đề án đã được thông qua Hội đồng nhân dân và UBND tỉnh và được chấp  thuận đưa vào triển khai thực hiện từ cuối năm 2022.
 
Hính 1. Hội nghị sơ kết triển khai thực hiện Đề án Phát triển Nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022-2025 và định hướng đến năm 2030 tại Sóc Trăng
 
 
Qua báo cáo của Ban quản lý Dự án về quá trình hoạt động tóm tắt như sau:
 
Trong giai đoạn 2022 - 2024, triển khai thực hiện Đề án Phát triển nông nghiệp hữu cơ, đã tổ chức 2 cuộc hội nghị triển khai, thu hút 300 lượt người tham dự; tổ chức 21 lớp tập huấn nâng cao nhận thức về nông nghiệp hữu cơ cho cán bộ cấp tỉnh và cán bộ các huyện, thị xã, thành phố; tổ chức 148 lớp tập huấn về nông nghiệp hữu cơ cho nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp với 2.960 lượt người tham dự. Tổ chức 2 cuộc tham quan, học tập mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại tỉnh Lâm Đồng, Vĩnh Long và Bến Tre. Lắp đặt 28 bảng pano tuyên truyền về nông nghiệp hữu cơ tại các địa điểm thực hiện mô hình.
 
Hình 2. Hội nghị sơ kết triển khai thực hiện Đề án Phát triển Nông nghiệp hữu cơ tỉnh Sóc Trăng
 
Dự án đã hỗ trợ xây dựng quy trình sản xuất hữu cơ cho 32 mô hình trên cây ăn trái, lúa, rau màu, gia súc, thủy sản; hỗ trợ 14 mô hình sản xuất hữu cơ được tư vấn để đánh giá chứng nhận; hỗ trợ 2 mô hình xây dựng quy trình nhập liệu canh tác và truy xuất nguồn gốc. Để giúp tiêu thụ sản phẩm chuyển đổi hữu cơ, Ban Quản lý Dự án đã tổ chức liên kết xúc tiến thương mại, thông qua việc tham gia gian hàng trưng bày tại 4 cuộc hội chợ trong và ngoài tỉnh; tổ chức ký kết bản ghi nhớ liên kết tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản với Hội Nông sản an toàn tỉnh Lào Cai…
 
Hình 3. Hội nghị sơ kết triển khai thực hiện Đề án Phát triển Nông nghiệp hữu cơ tỉnh Sóc Trăng
 
Ngoài việc xây dựng đề án, Nhóm tư vấn Viện AOI đã tham gia lĩnh vực đào tạo về xây dựng mô hình NNHC cho cán bộ các cấp liên quan trong tỉnh và nông dân tham gia mô hình và tư vấn các vấn đề chuyên môn. Kết nối các DN đầu vào và đầu ra…
 
Nhóm Admin Viện AO
𝐆𝐢𝐨̛̀ 𝐭𝐫𝐚́𝐢 đ𝐚̂́𝐭 𝟐𝟎𝟐𝟒: 𝐆𝐢𝐚̉𝐦 𝐝𝐚̂́𝐮 𝐜𝐡𝐚̂𝐧 𝐂𝐚𝐜𝐛𝐨𝐧 - 𝐇𝐮̛𝐨̛́𝐧𝐠 𝐭𝐨̛́𝐢 𝐍𝐞𝐭 𝐙𝐞𝐫𝐨
download
GIỜ TRÁI ĐẤT TRÊN THẾ GIỚI
      Vào 20h30 ngày 23/3/2024 theo giờ địa phương, Giờ Trái đất lần thứ 18 sẽ diễn ra trên toàn cầu. Chiến dịch kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp và cộng đồng toàn thế giới “Tắt đèn, dành trọn vẹn một giờ cho trái đất", làm một việc hữu ích cho hành tinh của chúng ta.

     Bắt nguồn từ sự kiện tắt đèn mang tính biểu tượng tại Sydney 2007, Giờ Trái Đất đã trở thành phong trào toàn cầu hàng năm về bảo vệ môi trường, nơi các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, tổ chức và chính phủ trên toàn thế giới cùng lên tiếng về tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), mất tài nguyên thiên nhiên. Giữa lúc thế giới chứng kiến nhiều xáo trộn, Giờ Trái đất là một tín hiệu tích cực, một nguồn hy vọng và cảm hứng để kêu gọi sự cam kết mạnh mẽ hơn từ công chúng trên toàn cầu, đặc biệt đối với các cá nhân còn đang do dự và ngần ngại, cùng tham gia phục hồi trái đất.
  
     Bà Kirsten Schuijt - Tổng Giám đốc Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) - chia sẻ: “Chúng ta cần đoàn kết, phát huy sức mạnh của tập thể và cá nhân để nâng cao nhận thức về những vấn đề môi trường, hướng tới phục hồi đa dạng sinh học vào năm 2030. Giờ Trái đất không chỉ dừng lại ở việc tắt đèn 1 giờ mỗi năm mà là cơ hội để tất cả chúng ta cùng nhau hành động, cùng nhau bảo vệ hành tinh mà chúng ta đang sống”.
GIỜ TRÁI ĐẤT 2024 TẠI VIỆT NAM

     Biến đổi khí hậu là thách thức lớn nhất mà loài người đang phải đối mặt. Đối với Việt Nam, việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề đặc biệt quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Tiếp theo cam kết đưa phát thải ròng về không (Net Zero) tại COP26, chính phủ Việt Nam khẳng định “đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện” tại COP28 thông qua việc xây dựng và thực hiện các chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng hệ sinh thái năng lượng tái tạo; nghiêm túc theo đuổi cam kết quốc gia tự quyết định, chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và nhiều hoạt động khác nhằm giảm thiểu phát thải carbon.

     Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn hay kinh tế carbon thấp là mục tiêu không hề dễ dàng. Trong bối cảnh đó, việc giảm dấu chân carbon đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hướng tới Net Zero. Giảm dấu chân carbon, đồng nghĩa với giảm phát thải, là một trong những yếu tố tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

     Giờ Trái đất 2024 tại Việt Nam, WWF cùng với Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường kêu gọi công chúng cùng “Giảm dấu chân carbon - Hướng tới Net Zero”. Trong đó, Giờ Trái đất kêu gọi các doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất, áp dụng các giải pháp tối ưu hoá hoạt động, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính. Bên cạnh các hoạt động trực tuyến trên các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội, nhiều sự kiện trực tiếp cũng được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức và kêu gọi cộng đồng cùng hành động vì mục tiêu chung của Việt Nam.

     Bà Phạm Cẩm Nhung, Quản lý Chương trình Khí hậu và Năng lượng của WWF-Việt Nam, chia sẻ: “Đôi khi chúng ta quên mất rằng thiên nhiên ban tặng cho chúng ta rất nhiều điều thiết yếu trong cuộc sống, từ không khí chúng ta đang thở, thực phẩm, nước uống chúng ta dùng hàng ngày. Về cơ bản, chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Giờ Trái đất là cơ hội để chúng ta cùng nhìn lại và suy ngẫm. Bên cạnh hành động tắt đèn, bạn có thể làm nhiều điều thiết thực để bảo vệ ngôi nhà chung duy nhất của chúng ta. Hãy cùng chúng tôi giảm dấu chân carbon, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của đất nước”.

     Ngày 23 tháng 3 này, khi đồng hồ điểm 20h30, khắp nơi trên thế giới cùng tham gia vào thời khắc tắt đèn, chúng ta hãy tạm gác lại những vướng bận hàng ngày, dành một giờ cho Trái đất và làm những việc, dù là nhỏ nhất, có thể góp phần giảm dấu chân carbon. Bạn có thể đạp xe, lựa chọn mua các sản phẩm tiêu dùng thân thiện với môi trường, trồng thêm cây xanh, tham dự sự kiện Giờ Trái đất tại địa phương hay chỉ đơn giản là tắt các thiết bị điện không cần thiết trong vòng một giờ. Dù bạn là ai, và đang ở đâu, tất cả đều có thể tham gia vào sứ mệnh cao cả này vào ngày Giờ Trái đất.
 
poster 1 1 1 1 771831
© WWF-Việt NamBộ nhận diện thương hiệu Giờ Trái đất 2024

      NGÂN HÀNG THỜI GIAN

     Trong năm 2024, WWF-Việt Nam chính thức giới thiệu nền tảng Ngân hàng thời gian (Hour Bank) nhằm kêu gọi công chúng tại Việt Nam cùng dành thời gian thực hiện những hành động thiết thực vì Trái đất. Nền tảng Hour Bank đã được triển khai từ Giờ Trái đất năm 2023 trên thế giới, ghi nhận 410.000 giờ hành động vì Trái đất từ công chúng toàn cầu.

     Hour Bank là nền tảng cho phép người dùng khám phá hoạt động phù hợp với bản thân trên 6 lĩnh vực: Thực phẩm, Thể thao và sức khỏe, Giải trí, Nghệ thuật và sáng tạo, Bền vững, Thiên nhiên. Mỗi cá nhân có thể đồng thời thực hiện nhiều hoạt động hữu ích cho Trái đất, lan tỏa thông điệp tích cực tới cộng đồng từ các sở thích và lối sống hàng ngày.

     Với mỗi lượt truy cập và đăng ký/hoàn thành một hoạt động có trong Hour Bank, hệ thống sẽ ghi nhận thời gian mỗi người đóng góp cho Trái đất. Tổng số thời gian mỗi quốc gia đăng ký trong Hour Bank, và bảng xếp hạng toàn cầu sẽ được công bố trên trang web Giờ Trái đất Quốc tế sau chiến dịch.

     Năm 2024, Giờ Trái đất kỳ vọng có thể nhận được ít nhất 10.000 giờ ủng hộ Trái đất từ công chúng Việt Nam. Hãy truy cập trang Ngân hàng thời gian để đăng ký hoạt động và thời gian bạn muốn dành cho cho Trái đất.Posted on 07 March 2024Giờ Trái đất 2024 tại Việt Nam, WWF cùng với Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên & Môi trường kêu gọi công chúng cùng “Giảm dấu chân carbon - Hướng tới Net Zero”.
Sưu tầm: https://vietnam.panda.org/?384015/GIO-TRAI-DAT-2024-GIAM-DAU-CHAN-CARBON-HUONG-TOI-NET-ZERO
Nhóm Admin Viện AOI
 

 

     Một bài báo đã xuất bản của ACIAR (Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Úc) đã mô tả một phương pháp kiểm soát loài gặm nhấm trên cây lúa được trồng ở vùng đất thấp mà không sử dụng hóa chất. Bài báo này là một ghi chú nghiên cứu mô tả về hệ thống rào cản bẫy cộng đồng (CTBS). Những hệ thống này là những chiếc lồng lớn (có diện tích từ 20-50 m2) làm bằng nhựa, cọc tre hoặc gỗ, dây hoặc dây điện, ghim và bẫy chuột (xem Hình 1). Lồng được xây dựng có mục đích ở cánh đồng canh tác lúa và một loại cây trồng làm bẫy (thường là giống lúa chín sớm) được trồng trong lồng. Lồng được bao quanh bởi một con hào và các lối vào bằng gò, cụ thể dẫn đến bẫy. Cây thu hút chuột từ các cánh đồng xung quanh cách xa tới 200 m. Một CTBS duy nhất có thể bảo vệ diện tích từ 10-15 ha.

Figure 1: View of large rat trap cage (bottom) and diagram showing placement of traps around rice trap crop (top). Figures from ACIAR Research Note.

Hình 1: Hình ảnh lồng bẫy chuột lớn (phía dưới) và sơ đồ bố trí các bẫy xung quanh bẫy lúa (phía trên). Số liệu từ Ghi chú nghiên cứu của ACIAR.

 

      Một trong những điều thú vị nhất của ghi chú nghiên cứu ACIAR là thảo luận về  sinh sản của loài gặm nhấm và mối quan hệ của nó với sự phát triển của cây lúa. Đây là một đoạn trích từ ấn phẩm: “Việc sinh sản ở chuột đồng [Rattus argentiventer và Rattus lossa] dường như được kích hoạt bởi sự trưởng thành của chính cây lúa, với con cái lần đầu tiên bước vào giai đoạn động dục 1-2 tuần trước khi đẻ nhánh tối đa. Sau thời gian mang thai ngắn ngủi 3 tuần, lứa đẻ lên tới 18 con (trung bình 1112 con) được sinh ra. Chó con phát triển nhanh chóng và sẵn sàng sinh sản khi được 6 tuần tuổi. Con cái trưởng thành có thể mang thai lần nữa trong vòng vài ngày sau khi sinh con và do đó có thể sinh ba lứa trong giai đoạn sinh sản của vụ lúa - tổng cộng 30-40 con chuột con cho mỗi con cái ban đầu vào thời điểm thu hoạch.

 

      “Số mùa sinh sản mỗi năm cũng liên quan đến số chu kỳ trồng trọt. Một vụ lúa mỗi năm dẫn đến một mùa chuột sinh sản, hai vụ lúa dẫn đến hai mùa chuột sinh sản, v.v. (Hình 2).

Hình 2: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ thuận giữa mùa vụ canh tác lúa và chu kí sinh sản ở chuột

 

     “…Khi thu hoạch cách nhau hơn 1-2 tuần trên cùng một khu vực canh tác, đàn chuột sẽ di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng cho những cánh đồng thu hoạch sau. Điều quan trọng hơn nữa là những con chuột được sinh ra vào đầu mùa thu hoạch sẽ đủ lớn để bắt đầu sinh sản trước khi thu hoạch xong. Điều này có thể tạo ra sự bùng nổ đột ngột về số lượng chuột. Thay vì một con cái sinh ra 30-40 con non, con cái và con của nó sẽ sinh ra 100-120 con con.”

 

      Về mặt thực tế, điều này có nghĩa là nếu một con chuột cái chết trước hoặc trong mùa sinh sản trước khi nó sinh sản lứa đầu tiên (ở giai đoạn lúa sữa) tương đương với việc giết 30-40 con chuột ngay trước khi thu hoạch. Ngoài ra, các cánh đồng ở cùng một khu vực canh tác nên được thu hoạch cách nhau hai tuần để tránh tình trạng chuột di chuyển từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để kiếm thức ăn. Thời gian bỏ hoang kéo dài thường dẫn đến sự suy giảm nhanh chóng số lượng chuột ở địa phương.

 

      CTBS thành công nhất khi nó được triển khai trong toàn thể cộng đồng thay vì chỉ bởi một cá nhân. Điều này là do chuột có thể di chuyển rất xa để tìm kiếm thức ăn và do đó sẽ phá hoại cây trồng từ khu vực không được bảo vệ.

 

     CTBS sẽ tiết kiệm chi phí nhất nếu thiệt hại về mùa màng do loài gặm nhấm dự kiến ​​là 10% hoặc cao hơn, nếu lồng được làm và bảo trì tốt và nếu nó được cả cộng đồng áp dụng. Các thí nghiệm được thực hiện ở Indonesia và Việt Nam đã cho thấy sản lượng lúa tăng từ 0,3 đến 1 tấn/ha trong khu vực cách lồng 200m theo mọi hướng. Ở hai nước này, nguyên vật liệu cho mỗi đơn vị CTBS có giá khoảng 25-50 USD. Vật liệu thường có thể được tái sử dụng trong 2 đến 4 mùa.

 

     CTBS sẽ tiết kiệm chi phí nhất nếu thiệt hại về mùa màng do loài gặm nhấm dự kiến ​​là 10% hoặc cao hơn, nếu lồng được làm và bảo trì tốt và nếu nó được cả cộng đồng áp dụng. Các thí nghiệm được thực hiện ở Indonesia và Việt Nam đã cho thấy sản lượng lúa tăng từ 0,3 đến 1 tấn/ha trong khu vực cách lồng 200m theo mọi hướng. Ở hai nước này, nguyên vật liệu cho mỗi đơn vị CTBS có giá khoảng 25-50 USD. Vật liệu thường có thể được tái sử dụng trong 2 đến 4 mùa.

 

     Một số ý tưởng khác (ngoài CTBS) đã được đưa ra để kiểm soát loài gặm nhấm trên ruộng lúa. Ví dụ, bờ kè phải thấp và rộng dưới 30cm để chuột khó đào hang. Cần phát hiện hang chuột và tiêu hủy khi lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh. Loài gặm nhấm phải bị bẫy trong vòng hai tuần kể từ khi trồng cây.

 

Tài liệu này có sẵn trên web tại: http://aciar.gov.au/files/node/2212/rn26.pdf

Trích dẫn tài liệu:

Berkelaar, D. 2006. A Non-chemical Method of Rat Control for Rice Fields. ECHO Development Notes no. 93

Bản dịch: Nhóm Admin Viện AOI

 

 

 

 

      Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa có báo cáo gửi Thủ tướng về việc đã ký các văn bản chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới. Số tiền thu về đạt gần 1.250 tỷ đồng.
 
      Trong báo cáo về tình hình thực hiện Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ gửi Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ NN-PTNT nêu rõ, ERPA được ký vào ngày 22/10/2020 giữa cơ quan này và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) với tư cách là Bên được ủy thác của Quỹ Đối tác Các-bon Lâm nghiệp (FCPF).
 
     ERPA nhằm chuyển nhượng lượng giảm phát thải (GPT) 10,3 triệu tấn carbon dioxide (CO2) ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 cho FCPF thông qua WB, với đơn giá 5 USD/tấn CO2 tương đương 51,5 triệu USD.
 
     Khoảng 95% kết quả chuyển nhượng sẽ được chuyển giao lại cho Việt Nam để đóng góp vào cam kết của Quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính nhằm đạt mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu được thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 (COP21).
 
     Ngoài ra, WB có quyền mua bổ sung tối đa 5 triệu tấn CO2 từ Báo cáo kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 với đơn giá 5 USD/tấn CO2 theo cơ chế ERPA đã ký. Kết quả GPT được xác định chung cho cả vùng Bắc Trung Bộ.
lam nghiep 1400
Bộ NN-PTNT đã chuyển giao cho Ngân hàng Thế giới 10,3 triệu tấn CO2 (Ảnh minh hoạ)
 
     Thời điểm tính kết quả giảm phát thải từ ngày 1/1/2018 đến 31/12/2024. WB sẽ thực hiện chi trả dựa trên kết quả qua 3 kỳ báo cáo của Bộ NN-PTNT.
Ngày 11/12, Bộ NN-PTNT đã ký các văn bản chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới.
 
     Bộ NN-PTNT cho biết, đầu tháng 8 vừa quan, WB đã thanh toán tiền ERPA đợt 1 là 41.200.000 USD (tương đương 997,040 tỷ đồng), tương ứng với 80% kết quả giảm phát thải theo ERPA đã ký.
 
     Số tiền còn lại 10.300.000 USD tương đương 249,26 tỷ đồng, Bộ sẽ phối hợp với WB thực hiện các thủ tục thanh toán sau khi hoàn thành việc chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2.
 
     Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam là cơ quan đầu mối tiếp nhận, quản lý, sử dụng nguồn tiền từ ERPA và thực hiện điều phối cho Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.
 
     Nguồn tiền này sẽ chi trả cho các chủ rừng, UBND cấp xã và tổ chức… được giao trách nhiệm quản lý rừng tự nhiên; chi cho các đối tượng khác có hoạt động liên quan đến GPT khí nhà kính để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, góp phần giảm mất rừng, suy thoái rừng và nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân làm nghề rừng.
 
     Bộ NN-PTNT cũng thông tin, WB đã xác nhận kết quả giảm phát thải toàn vùng Bắc Trung Bộ kỳ 1 (1/1/2018-31/12/2019) đạt 16,21 triệu tấn CO2 (tương đương 16,21 triệu tín chỉ). Trong đó, lượng chuyển nhượng theo ERPA đã ký là 10,3 triệu tấn CO2.
 
     Còn lại 5,91 triệu tấn CO2, WB muốn mua bổ sung 1 triệu tấn CO2. Còn 4,91 triệu tấn CO2, Bộ này sẽ xây dựng phương án trao đổi, chuyển nhượng, thương mại để tạo nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại vùng Bắc Trung Bộ và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
 
     Bộ NN-PTNT đề xuất được tiếp tục xây dựng báo cáo kết quả giảm phát thải kỳ 2 (1/1/2020-31/12/2022) và kỳ 3 (1/1/2023-31/12/2024) gửi WB thẩm định. Trường hợp có lượng GPT bổ sung, Bộ sẽ tìm kiếm đối tác đàm phán, đề xuất trao đổi, chuyển nhượng.
                                                                                                                                                                                 
                                                                                                                                                                         Theo Tâm Thu (27/12/2023)
 

 

ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI-CƠ HỘI VÀ KHÓ KHĂN-THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HƯU CƠ HIỆN NAY

Viện NC&PT Nông nghiệp hữu cơ Á Châu (AOI)

I. Thuận lợi, và cơ hội

1. Chính sách thúc đẩy phát triển NNHC

Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng được nhà nước quan tâm và khuyến khích, Chính phủ đã ra ban hành nhiều chương trình/Nghị Định/Quyết Đinh…trong đó (i) Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg ngày 1/2012 của Thủ tướng chính phủ về chính  sách  hỗ  trợ cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ về việc áp dụng các thực hành nông nghiệp tốt trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm hữu cơ; (ii) Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 về nông nghiệp hữu cơ; (iii) Quyết định 3883/QĐ-BKHCN ngày 29.12.2017 công bố 03 Tiêu chuẩn: TCVN 11041-1:2017: Yêu cầu chung đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm NNHC, TCVN 11041-2:2017 : Trồng trọt hữu cơ và TCVN 11041-3:2017: Chăn nuôi hữu cơ; (iv) Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuát và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; (v) Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 của Thủ Tướng Chính Phủ về việc phê duyệt đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030...

Hiện nay, trong chiến lược phát triển NN của Việt Nam, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập cho người sản xuất là ưu tiên hàng đầu. Trong đó việc giảm diện tích canh tác lúa, giảm sản lượng xuất khẩu gạo giá rẻ để canh tác các giống chất lượng cao như ST24, ST25, Hạt ngọc trời...được quốc tế đánh giá và được xếp thứ hạng cao trên thế giới, vì thế gạo hữu cơ hiện nay đang là chiến lược xuất khẩu của nhiều tỉnh phía ĐBSCL và như vậy canh tác lúa hữu cơ có triển vọng rất lớn. Do đó, một số địa phương đang rất quan tâm để thực hiện một số chính sách hỗ trợ từ chính phủ về việc phát triển các sản phẩm chủ lực của địa phương theo canh tác NNHC như Kiên Giang, An Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Sóc Trăng...

2. Cơ hội thị trường NNHC trên thế giới và tronga nước

Dữ liệu mới nhất về canh tác hữu cơ trên toàn thế giới được trình bày bởi Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Hữu cơ (FiBL) và IFOAM – Organics International tại BIOFACH, hội chợ thương mại hàng đầu thế giới về thực phẩm hữu cơ.

Năm 2021, doanh số bán lẻ hữu cơ tăng 4 tỷ euro và đạt gần 125 tỷ euro. Đất nông nghiệp hữu cơ đã tăng lên tổng cộng 76,4 triệu ha trên toàn cầu.

Thị trường nông nghiệp hữu cơ toàn cầu sẽ tăng từ 169,04 tỷ USD vào năm 2022 lên 187,84 tỷ USD vào năm 2023 với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 11,1%. (Theo www.globenewswire.com/en/news-release/2023) .

Cơ hội phát triển NNHC trong nước. Theo Bộ NN&PTNT, tính đến nay, diện tích canh tác hữu cơ tại Việt Nam tăng từ 53.350 ha năm 2016 lên khoảng 237.693 ha năm 2019. Cả nước có 46/63 tỉnh thành đang thực hiện và có phong trào sản xuất hữu cơ. Số nông dân tham gia sản xuất hữu cơ là 17.168 người.

Số lượng doanh nghiệp sản xuất hữu cơ là 97 doanh nghiệp; tham gia xuất khẩu là 60 doanh nghiệp với kim ngạch khoảng 335 triệu USD/năm. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.

3. Tiềm năng vùng đất nông nghiệp hữu cơ

Nước ta có nhiều vùng đất thuận lợi cho canh tác hữu cơ như các vùng đồi núi xa ở Tây Bắc, Tây Nguyên... bà con nông dân và người dân tộc canh tác thiên về tự nhiên ít hoạc không ùng hóa chất nên có khả năng chuyển đổi sang canh tác hữu cơ.  Ở ĐBSCL, có vùng lúa-tôm trên 200 ngàn ha của nhiển tỉnh ven biển có hệ thống canh tác một vụ lúa và một vụ tôm, có điều kiện tương hỗ giũa cây trồng và vật nuôi rất có khả năng chuyển đổi sang canh tác hữu cơ có chứng nhận. Ở các vùng chuyên canh lúa như An Giang, Kiên Giang... có diện tích sản xuất lúa vào loại lớn nhất nước, trong đó những vùng tập trung diện tích lớn như Tri Tôn, Thoại Sơn, Hòn Đât, Kien Luong....nếu nông dân được tổ chức, đầu tư có sự tham gia liên kết từ sản xuất (với quy trình riêng cho vùng lúa thâm canh), đánh giá chứng nhận đến tiêu thụ sản phẩm, có khả năng sản xuất lúa hữu cơ áp dụng công nghệ cao, đạt chứng nhận quốc tế cho sản xuất và tiêu thụ trong nước nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh tế cho các bên tham gia, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng, bảo vệ môi trường bền vững và xây dựng nông thôn mơi.

4. Nguồn lực:

Hiện nay các tỉnh có nhiều doanh nghiệp đi tiên phong trong sản xuất nông nghiệp  liên kết theo các tiêu chuẩn VietGAP, SRP, an toàn dư lượng, và theo hướng hữu cơ là những tiêu chuẩn an toàn làm cơ sở đạt tiêu chuẩn hữu cơ.

Hình 1. Chuyến khảo sát thực địa của Viện AOI và HTX Vọng Đông

Nông dân một số vùng sản xuất lúa ở các HTX tham gia các dự án trong nước và quốc ế, các tổ chức NGO như Oxfam, GIZ, Rhikolto, WWF... cũng đã được tập huấn làm quen với qui trình sản xuất hữu cơ hoặc chuyển đổi canh tác hữu cơ. Đây là thuận lợi cho phát triển NNHC.  

5. Đầu vào:

Canh tác nông nghiệp của Việt Nam cũng có một số thuận lợi nhất định trong đó nông dân có nhiều kinh nghiệm trong việc tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp như tro trấu, rơm rạ, các phế phẩm cây trồng vật nuôi, phù sa ao hồ sông suối, nguồn than bùn...để sản xuất các phân bón hữu cơ. Việt Nam còn có nhiều tài nguyên khoáng chất đủ để cung cấp cho cây trồng. Với sự phát triển các kỹ thuật hiện đại trong công nghệ sinh học, Việt Nam cũng đã phát triển các loại phân bón hữu cơ từ các loại nấm Trichoderma phân hủy rơm rạ, các chế phẩm vi sinh trong phòng trừ sâu bệnh như Metarhizium, Beauveria, Nomurea...các chất dinh dưỡng từ Chitosan...Nguồn vật liệu hữu cơ nhập khẩu từ các nước Bắc Mỹ và Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ... hiện tại cũng rất đa dạng, phong phú từ phân bón gốc, bón lá đến các sản phẩm bảo vệ thực vật như phân gà Ý, đạm cá Mỹ, acid humic Canada, Mỹ, thuốc sinh học, vi khuẩn ... trừ côn trùng từ Mỹ, Châu Âu...tất cả đều có chứng nhận nguồn gốc hữu cơ của OMRI.

6. Sự đầu tư có trách nhiệm và nắm bắt cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp tiên phong:

Các doanh nghiệp kinh doanh nắm bắt cơ hội nông nghiệp hữu cơ theo xu hướng thị trường và kinh doanh có trách nhiệm vơi môi trường và cộng đồng đi tiên phong trong chiến lược kih doanh , dám nghĩ dám làm, vượt lên thử thách, tin tưởng noog dân cùng nhau tìm giải pháp phù hợp tránh rủi ro sản xuất inh doanh và mạnh dạn đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu lâu dài sản xuất sản phẩm NN hữu cơ. Các doanh nghiệp này là yếu tố rất quan trọng trong phát trển NNHC.  

Hình 2. Viện AOI liên kết với các doanh nghiệp xây dựng thị trường đầu ra cho sản phẩm hữu cơ

II. Khó khăn, thách thức:

1. Thay đổi nhận thức của xã hội và tập quán canh tác của nông dân

Điểm yếu và thách thức lớn nhất là khó thay đổi nhận thức của xã hội và thay đổi tập quán canh tác của nông dân. Vấn đề này cần phải đầu tư lâu dài để tuyên truyền, giáo dục làm thay đổi nhận thức và tập quán tiêu dùng của xã hội và thói quen canh tác hóa học của nông dân.

Do nhiều yếu tố mà NNHC vẫn chưa được hiểu đúng ý nghĩa, chưa nhất quán, các thắc mắc của người sản xuất vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng về vật liệu thay thế; việc giải quyết năng suất cây trồng vật nuôi không bị sụt giảm mạnh trong giai đoạn chuyển đổi. Vẫn còn nhầm lẩn giữa sản xuất theo hướng hữu cơ và sản xuất hoàn toàn bằng đầu vào hữu cơ.

Hình 3. Viện AOI luôn đồng hành cùng bà con nông dân trong quá trình sản xuất hữu cơ

Vật liệu đầu vào cho sản xuất hữu cơ cũng đang được hiểu chưa đúng thực chất, còn nhầm lẫn giửa phân bón hoàn toàn bằng vật liệu hữu cơ và phân bón có hàm lượng hữu cơ cao hoặc phân bón hữu cơ nhưng đã bị nhiễm bẩn.

Vấn đề thay đổi nhận thức nhằm thay đổi tập quán canh tác của người nông dân cũng tương tự. Qua một quá trình lịch sử lâu dài người nông dân quen với sản xuất thiên về áp dụng nhiều phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa học nay chuyển đổi sang sản xuất bằng các đầu vào sinh học, hữu cơ là một vấn đề không phải dễ dàng. Do nông dân thiếu lòng tin hoặc chưa am hiểu, hoặc do hiệu quả của các đầu vào này còn thấp…

Đồng thời khó khăn còn nằm ở chỗ có trường hợp nông dân thiếu trung thực, họ không tuân thủ quy trình hoặc tự ý áp dụng các đầu vào hóa học bị cấm trong sản xuất hữu cơ sẽ dẫn đến thất bại của mô hình, làm ảnh hưởng cho toàn bộ dự án và gây thiêt hại cho doanh nghiệp đầu tư.

2. Quản lý cỏ dại trong sản xuất, nhất là đối với vùng lúa chuyên 2-3 vụ lúa/năm:

         Do sản xuất hữu cơ hoàn toàn sạch, không cho phép sử dụng thuốc trừ cỏ hóa học. Trong khi thuốc trừ cỏ sinh học chưa phổ biến, nông dân đã quen dùng thuốc trừ cỏ hóa học để phòng trừ, có khi 2-3 lần vụ ở vùng chuyên lúa. Đối với vùng lúa trong hệ thống lúa-tôm việc kiểm soát cỏ dại tương đối tốt hơn do nông dân canh tác tôm sau vụ lúa, dùng nước ngăn chận cỏ dại phát triển trong vụ lúa và do lợi ích nuôi tôm, nông dân không dùng thuốc diệt cỏ, là ưu thế của vùng này trong sản xuất hữu cơ (Thanh, N.C. et al, 2019).

3. Chi phí đánh giá cao:

Một thách thức nữa là các sản phẩm hữu cơ đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu vẫn dựa vào các tổ chức quốc tế như CU (Control Union). Đồng thời chưa có nhiều tổ chức chứng nhận quốc tế hoạt động trong nước, nên giá thành sản phẩm cao khó cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhận thức của cộng đồng về giá trị sản phẩm nông nghiệp hữu cơ vẫn còn thấp là một khó khăn và thách thức.

          IFOAM cần thống nhất các tiêu chuẩn chung cho NNHC hữu cơ có thể áp dụng toàn cầu, hiện còn cá biệt vùng và quốc gia về tiêu chuẩn và đầu vào sản xuất chưa thống nhất, thậm chí thiếu khoa học và thuyết phục. Cần có sự cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực chứng nhận NNHC. Các tổ chức chứng nhận cần linh hoạt và giảm các phí không phù hợp và các rào cản kỹ thuật thiếu tính khoa học và bản chất hữu cơ. Có thể linh hoạt cho từng vùng chuyển đổi và giai đoạn nhất định để khuyến khích NNHC phát triển.

4. Biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường và dịch bệnh lan tràn:

Biến đổi khí hậu (BĐKH) trong đó nóng, nhiệt cao, hạn, mặn bất thường xẩy ra gây thiệt hại đáng kể cho sản xuất ở ĐBSCL như các năm 2015-2016; gần đây 2019-2020 làm cho cả lúa và tôm bị ảnh hưởng nặng nề. Vùng lúa-tôm cần có biện pháp canh tác thích nghi hơn nữa với BĐKH. Về dich bệnh không chỉ cho cây trồng mà cho con người như dịch bệnh Covid 19 từ cuối năm 2019 đến nay vẫn đang còn tiếp tục: Những tác động này làm cho sản xuất và thị trường không ổn định, nhất là thị trường xuất khẩu gạo nói chung và lúa gạo hữu cơ nói riêng.

5. Giá thành sản xuất:

Thời gian qua cơ hội để phát triển nền nông nghiệp hữu cơ là rất cao, nhiều người đã quan tâm đến các sản phẩm hữu cơ và thị trường NNHC đang có vị trí trong nội địa và quốc tế, tuy nhiên trong thực tế sản phẩm hữu cơ chưa đáp ứng nhu cầu thị trường vì giá cao hơn nhiều so với sản phẩm thông thường, việc phát triển thị trường sản phẩm hữu cơ ở địa phương còn hạn chế, chỉ tập trung vào 2 thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Việc không sử dụng các hóa chất kích thích tăng trưởng và phân bón vô cơ nên năng suất thấp, các sản phẩm hữu cơ có đầu vào còn nhiều hạn chế, giá cả chưa phù hợp và nhất là trình độ canh tác của nông dân trong sản xuất hữu cơ chưa cao do còn mới nên việc áp dụng quy trình thực hành NNHC chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất cây trồng.

     Giữa Doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm HC và cơ sở sản xuất vẫn chưa bên nào chịu bỏ phí đầu tư cho giai đoạn chuyển đổi – chi phí cao nhưng giá bán sản phẩm chưa cao do chưa đạt tiêu chuẩn hữu cơ.

6. Vấn đề thiếu lòng tin lẫn nhau giữa doanh nghiệp và HTX/ND:

Là một vấn đề quan ngại nhất là trong sản xuất NNHC. NNHC càng yêu cầu sự trung thực của người sản xuất và chữ tín của nhà đầu tư. Nguyên nhân thiếu sự tin tưởng lẫn nhau là do trong xã hội đã có nhiều trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro về thị trường “bỏ của chạy lấy người” không giữ chữ tín. Còn phía người nông dân thì có nhiều trưòng hợp “giá lúa lên – thì mất mùa; giá lúa sụt – thì trúng mùa”, phá vỡ hợp đồng. Hoặc vi phạm quy trình phun thuốc cấm, làm cho sản phẩm nhiễm hóa chất, không đạt tiêu chuẩn đăng ký gây thiệt hại cho doanh nghiêp. Vấn đề này hết sức chú ý và không nên xẩy ra trong thời gian thực hiện dự án này.

7. Tiêu thụ sản phẩm hữu cơ:

Cuối cùng và là nhân tố quan trọng để phát triển NNHC thành công là liên kết tiêu thụ sản phẩm hữu cơ (SPHC). Hiện nay tiêu thụ, nhất là thị trường nội địa chưa mạnh do giá thành SPHC quá cao, do nguyên nhân phát triển SPHC vướng một số khó khăn ban đầu như: (i) Chưa thực hiện được trên quy mô lớn; (ii) Việc chọn lựa mô hình đáp ứng yêu cầu sản xuất NNHC còn khó khăn do phải có thời gian công sức cải tạo chuyển đổi từ sản xuất thông thường (sử dụng nhiều phân hóa học và thuốc BVTV...); (iii) Năng suất cây trồng thấp hơn trong những năm đầu chuyển đổi; (iv) chi phí công lao động thường nhiều hơn so với sản xuất thông thường nên giá đầu tư cao hơn; (v) Chi phí cho chứng nhận mô hình hữu cơ nên giá thành sản phẩm cao...Vì vậy, trước mắt, để sản phẩm hữu cơ đạt hiệu quả kinh tế cao so với sản xuất thông thường người sản xuất cần có sự hỗ trợ về nhiều mặt của các tổ chức Nhà nước địa phương, tổ chức Khoa học và các Doanh nghiệp cung ứng và tiêu thụ nhằm mục đích ổn định năng suất và chất lượng cây trồng vật nuôi, đáp ứng các tiêu chuẩn cho sản phẩm hữu cơ ... để giảm giá thành sản xuất tăng lợi nhuận cho nông dân.

Tóm lại về điểm yếu và thách thức còn nhiều và chính những thách thức này dẫn đến còn nhiều rủi ro, làm cho doanh nghiệp và các bên trong chuỗi giá trị e ngại trong đầu tư sản xuất hữu cơ.

Từ những thách thức và khó khăn trên, để đẩy mạnh ngành NNHC với mục tiêu nâng cao chất lượng nông sản và an toàn vệ sinh cho con người. Các địa phương cần thực hiện các chính sách hỗ trợ từ chính phủ về vốn sản xuất, ưu đãi các tổ chức tham gia sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm hữu cơ. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quy chuẩn sản xuất, chế biến và chứng nhận chất lượng, thanh tra giám sát các hoạt động liên quan đến sản phẩm hữu cơ. Cơ quan nghiên cứu và phát triển NNHC cần hoàn thiện quy trình canh tác đảm bảo ổn định và hiệu quả năng suất, đầu ra. Đẩy mạnh liên kết "4 nhà"”phát triển NNHC. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường và quảng bá sản phẩm.

Nhóm Admid Viện AOI tổng hợp

RUỒI LÍNH ĐEN - MỘT GIẢI PHÁP TỰ CHỦ PHÂN BÓN CHO NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

     Hiện nay có nhiều trang trại nuôi trùn quế để tự chủ nguồn phân bón cho trang trại của mình. Ngoài trùn quế, ruồi lính đen cũng là một giải pháp có thể giúp các trang trại chủ động sản xuất được phân bón cho mình.

     Trong vòng đời của ruồi lính đen, ấu trùng (còn gọi là sâu canxi) sẽ giúp làm nhiệm vụ xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi và phân cho cây trồng.

     Sau 1-3 ngày một tấn rác tươi sau khi xử lý tạo ra được 250-300 kg phân hữu cơ và 50-70 kg sâu canxi tươi. Sâu canxi còn là nguồn thức ăn hoàn hảo cho thú nuôi với hàm lượng protein và canxi tự nhiên cao.

     Vòng đời phát triển của ruồi lính đen từ lúc sinh ra đến khi chết đi trong khoảng 40 – 45 ngày qua các giai đoạn: 

     – Giai đoạn trứng: Trứng ruồi lính đen rất nhỏ, khi được đẻ ra trứng ấp 4 ngày nở thành ấu trùng.

     – Giai đoạn ấu trùng: Ấu trùng (sâu canxi) của ruồi lính đen là loại phàm ăn trong thế giới tự nhiên. Chỉ với 1m2 mỗi ngày ấu trùng có thể ăn tới 40 kg phân lợn tươi và cứ 100 kg phân có thể sản xuất ra 18 kg ấu trùng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong vòng đời để xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi

     – Giai đoạn phát triển thành tiền nhộng: sau khoảng 14 ngày sâu canxi nó sẽ từ màu trắng chuyển thành màu nâu đen gọi là tiền nhộng, trong giai đoạn này vỏ vẫn mềm, vẫn di chuyển được, bắt đầu rời khỏi nguồn thức ăn tìm nơi cao, khô để thành nhộng. Có cơ chế tự mà sạch bản thân không còn vi khuẩn khi rời khỏi nguồn thức ăn

     – Giai đoạn phát triển thành kén (Nhộng): từ tiền nhộng khoảng 7 ngày sẽ phát triển thành kén (nhộng), có vỏ cứng và không di chuyển. 

     - Giai đoạn ruồi lính đen trưởng thành: Nhộng 10 ngày hoặc lâu hơn sẽ nở thành Ruồi lính đen kích thước dài thường khoảng 12 – 20 cm, chỉ sống khoảng 3 – 5 ngày và hoàn toàn không ăn uống gì cho đến chết. Ruồi lính đen đực và cái giao phối với nhau để sinh ra trứng. Mỗi con cái đẻ khoảng số lượng ước chừng là 500 – 800 trứng rồi chết. (Furman và cs.,1974).

Hình 1. Vòng đời phát triển của Ruồi lính đen (Ảnh: Jennifer Larouche)

     CÓ ĐƯỢC PHÉP NUÔI RUỒI LÍNH ĐEN? 

     Nghị định số 46/2022/NĐ-CP ngày 13 tháng 07 năm 2022 của Chính phủ xếp ruồi lính đen vào danh mục động vật khác được phép chăn nuôi. Đây là văn bản rất quan trọng với những người đang nuôi hoặc có dự kiến nuôi ruồi lính đen, mở đường cho sự phát triển nhanh chóng của ruồi lính đen tại Việt Nam.

     RUỒI LÍNH ĐEN TRƯỞNG THÀNH CÓ GÂY HẠI KHÔNG? 

     – Ruồi trưởng thành không ăn, chỉ uống nước do không có miệng do đó không cắn, đốt, không phá hoại mùa màng hay gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái tại địa phương

     – Ruồi trưởng thành chỉ quan tâm đến việc sinh sản, nghỉ ngơi.  Sinh sản gần thức ăn ôi thiu để ấu trùng dễ sinh sôi. Vì vậy, không bị thu hút bởi những thứ có trong nhà ngay cả khi được nuôi gần đó

     – Ấu trùng ruồi lính đen tự làm sạch bản thân khi tiến vào giai đoạn tạo nhộng và có đặc tính kháng khuẩn.  Vì vậy ấu trùng và ruồi trưởng thành không mang mầm bệnh và không truyền bất kỳ bệnh truyền nhiễm nào cho người, gia súc, gia cầm, cá và cây trồng.

     – Ruồi lính đen tồn tại trong điều kiện tự nhiên của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xử lý rác thải hữu cơ, xác động vật, phế phụ phẩm nông nghiệp đã được nhiều cơ sở tại Việt Nam nghiên cứu, thu trứng tự nhiên, nuôi và sử dụng làm thức ăn chăn nuôi.

     Trong vòng đời của ruồi lính đen, chỉ có ấu trùng làm nhiệm vụ xử lý rác thải hữu cơ và tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi và phân cho cây trồng.

Hình 2. Ruồi lính đen trưởng thành. (Ảnh: Pixabay)

     TẠI SAO NÊN NUÔI SÂU CANXI?

     Xử lý rác thải

     – Sâu canxi là sinh vật phân giải của tự nhiên và là người bạn và trợ thủ đắc lực của con người. Sâu canxi ăn một lượng lớn chất thải hữu cơ, từ phân vật nuôi đến thức ăn thừa. “chất thải” và chất gây ô nhiễm chuyển thành thức ăn chăn nuôi chất lượng cao, giàu đạm và dinh dưỡng cho vật nuôi.

     – Tốc độ xử lý chất thải nhanh, làm giảm lượng chất thải và đặc biệt là mùi hôi.

     – Giúp giảm thiểu sự sinh sôi của vi khuẩn có hại như Excherecia coli O157 (hay E. Coli) và Salmonella trong phân vật nuôi (Marilin C. Erickson, 2004).

     – Có thể ức chế ruồi nhà Musca domestica L (Klpatrick và SchooF, 1959; Furman, 1959; Tingle và cs,1975).

     – Các nghiên cứu của TS. Trần Tấn Việt, sau 1 – 3 ngày một tấn rác tươi sau khi xử lý tạo ra được 250 – 300 kg phân hữu cơ và 50 – 70 kg sâu canxi tươi. Một tấn phân lợn thu được 130 kg phân khô và 80kg sâu canxi tươi. Sâu canxi (tiền nhộng) có tỷ lệ chất khô là 40% và chứa 42% protein. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Chí, Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết cứ 6 – 7 kg phân gia súc tươi thì sản xuất ra được 1 kg sâu canxi.

     – Sâu canxi có thể sản xuất với số lượng lớn trong điều kiện không gian hẹp vì chúng phát triển rất nhanh. Theo các nhà khoa học một nửa hecta (ha) nuôi sâu canxi có thể tạo ra lượng protein nhiều hơn cả 1.200 ha nuôi bò hay 52 ha trồng đậu nành.

     Làm thức ăn giàu dinh dưỡng cho vật nuôi

     – Sâu canxi chứa nhiều chất béo, canxi và các khoáng chất khác, cũng như các vitamin thiết yếu cho sự phát triển khỏe mạnh của vật nuôi. Là thành phần của khẩu phần thức ăn hoàn chỉnh để hỗ trợ gà (O.M. Hale, 1977), lợn (G.L. Newton, 1977), cá hồi (St-Hilaire, 2007) và cá da trơn

     – Sâu canxi chứa kháng sinh tự nhiên giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh của gia súc, gia cầm và giúp vật nuôi phát triển khỏe mạnh. Đặc biệt, protein của ấu trùng ruồi lính đen rất giầu lysine; trong chất béo của ấu trùng ruồi lính đen có tới 54% là axit lauric, một axit có tác dụng tiêu diệt virus có vỏ bọc bằng lipid (như virus HIV, sởi) cũng như Clostridium và các protozoa gây bệnh.

     – Là nguồn thức ăn hoàn hảo cho thú nuôi với hàm lượng protein và canxi tự nhiên cao; Tỉ lệ Ca:P (1,5:1) hoàn hảo, hàm lượng canxi tự nhiên cao giúp cho sự hình thành, phát triển của xương và vỏ trứng. Hạn chế gia cầm bại liệt, đẻ non, đẻ giảm, tỷ lệ ấp nở thấp và gây ra hiện tưởng cắn mổ nhau. Bên cạnh đó nó chứa hàm lượng cao các acid amin và acid béo cần thiết. Ví dụ như Methionine là acid amin cần thiết cho cấu trúc của protein, nhưng hầu hết động vật không thể tự tổng hợp được mà phải hấp thụ từ các chuỗi thức ăn khác nhau.

     – Sâu canxi đang được nghiên cứu để phát triển các loại thuốc kháng khuẩn để phòng và điều trị bệnh cho vật nuôi

      – Ấu trùng sống luôn luôn hoạt động điều này kích thích bản năng săn mồi tự nhiên của vật nuôi.

     Phân sâu canxi sử dụng cho cây trồng

     – Quá trình tiêu hóa chất thải hữu cơ được hệ tiêu hóa của sâu canxi và hệ vi sinh vật cộng sinh trong đường tiêu hóa tạo ra loại phân hữu cơ vi sinh chất lượng cao, phân có hàm lượng nito cao và chứa nhiều vi sinh vật. Sau khi ủ, phân của sâu canxi là chất cải tạo đất hiệu quả, và là phân bón tốt cho cây trồng với hàm lượng dinh dưỡng cao hơn phân trâu bò, lợn, gia cầm.

     – Phân sâu canxi được khuyến khích làm thức ăn cho trùn quế để tạo thêm thức ăn cho vật nuôi, tạo phân hữu cơ cho cây trồng và tạo nên vòng tuần hoàn: Phân gia súc- Sâu canxi-trùn quế mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho nông dân

     Sâu canxi có ăn được không?

     Theo Tổ chức Nông lương quốc tế (FAO), khoảng 2 tỷ người trên thế giới hiện nay thường xuyên dùng côn trùng làm thực phẩm. “Sâu canxi chắc chắn sẽ tạo nên cuộc cách mạng trong ngành nông nghiệp. Cản trở duy nhất hiện nay là việc người tiêu dùng có công nhận nguồn Protein từ RUỒI, vốn thường được xem là một loài mất vệ sinh hay không”. GS Louw Hoffman, ĐH Queensland.

Trích dẫn bài viết: TS. Phạm Thanh Hải – nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Bộ

Bài 2: Tổng quan những nghiên cứu về giống cây trồng trong sản xuất hữu cơ

 

     Nhóm Admin xin giới thiệu bài nghiên cứu dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Nghiên cứu cây trồng nông nghiệp hữu cơ - hiện trạng và cơ hội phát triển trong tương lai

 5eec4e94245ae304ba4b

   Tác giả Ivan Tsvetkov và ctv (2018) đã có bài báo đánh giá sự phát triển gần đây của các khía cạnh khoa học, lập pháp, kinh tế và môi trường của canh tác cây trồng hữu cơ. Tác động của canh tác hữu cơ đến đa dạng sinh học và độ phì nhiêu của đất được thảo luận so với các hệ thống canh tác thông thường. Một rào cản đáng kể cho việc áp dụng rộng rãi và phát triển trong tương lai của nông nghiệp hữu cơ là sự đa dạng hiện có của các công cụ chính sách quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực này. Đặc biệt chú ý đến các kỹ thuật nghiên cứu cập nhật có thể giúp giải quyết một số vấn đề thường gặp phải trong canh tác hữu cơ cây trồng. Có ý kiến cho rằng canh tác hữu cơ vẫn chưa đáp ứng đủ năng suất để được coi là hoàn toàn bền vững. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết được hỗ trợ mạnh mẽ để thực hiện hiệu quả hơn các đổi mới nghiên cứu khoa học và cải thiện mạng lưới giữa tất cả các bên liên quan như- các nhà sản xuất hữu cơ, các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách tương ứng ở cấp quốc gia và quốc tế.

Hình 1: Sự phối hợp sản xuất, tổ chức liên kết giữa nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp tham gia các ĐTDA hữu cơ. Nhà nước cùng doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ, tìm kiếm đầu ra sản phẩm, các nhà khoa học tham gia tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và tư vấn, theo sát đồng hành cùng nông dân trong suốt quá trình thực hiện. Để có được sản phẩm thực sự hữu cơ, sự liên kết thực hiện của “4 nhà” là điều rất quan trọng.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang của nhóm thực hiện ĐT 4 H. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI).

 

  1. Khảo nghiệm giống hữu cơ - Phương pháp phân tích hàm lượng định tính để đánh giá khảo nghiệm giống hữu cơ, trường hợp nghiên cứu điển hình của Đức.

26d68aa8e06627387e77

Gutzen, Kaja (2019) đã có đề tài luận án Thạc sỹ với chủ đề Khảo nghiệm giống hữu cơ - Phương pháp phân tích hàm lượng định tính để đánh giá khảo nghiệm giống hữu cơ, trường hợp nghiên cứu điển hình của Đức. Công trình nghiên cứu này sẽ góp phần hiểu rõ hơn về việc thử nghiệm giống như một rào cản tiềm năng để phát hành các giống hữu cơ. Hệ thống đăng ký hữu cơ và kiểm tra sau đăng ký của Đức đối với các loài cây và rau nông nghiệp được so sánh với các hệ thống khác ở các Quốc gia Thành viên EU. Các cuộc phỏng vấn chuyên gia với Văn phòng Giống cây trồng Liên bang, ba điều phối viên thử nghiệm sau đăng ký của Văn phòng Liên bang và bảy nhà lai tạo trên khắp nước Đức được phân tích định tính nhằm xác định ưu điểm và nhược điểm của hệ thống khảo nghiệm hiện có. Trong bối cảnh này, các giả thuyết sau được xem xét: (1) Định nghĩa về “giống hữu cơ thích hợp cho sản xuất hữu cơ”, trong quy định hữu cơ mới (EU) 2018/848, thể hiện sự hạn chế của các giống có sẵn cho nông dân hữu cơ; (2) Thử nghiệm đa dạng trong điều kiện hữu cơ là cần thiết để xác định các loài cây và rau nông nghiệp hữu cơ phù hợp với nông nghiệp hữu cơ (KTMT); (3) Các giao thức DUS (tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định) và VCU (giá trị canh tác và sử dụng) hiện tại không đủ để đánh giá các giống hữu cơ. Các tiêu chí kiểm tra cần được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của lĩnh vực hữu cơ; và (4) Các nước thành viên EU cần cố gắng thực hiện hài hòa và các phương pháp tiêu chuẩn hóa để mở rộng chủng loại đa dạng cho lĩnh vực hữu cơ.

     (1) Định nghĩa về “giống hữu cơ thích hợp cho sản xuất hữu cơ” để lại quyền tự do giải thích, và do đó, cản trở việc thực hiện thống nhất trên toàn EU. (2) Thử nghiệm đa dạng trong điều kiện hữu cơ là cần thiết để xác định một số đặc điểm nhất định trên cây nông nghiệp và rau quả là quan trọng đối với nông nghiệp hữu cơ. Tuy nhiên, tồn tại sự không giống nhau về việc thiết kế thử nghiệm giống hữu cơ và liệu các thử nghiệm hữu cơ và thông thường có thể được kết hợp để đạt được cùng một kết luận hiệu quả hơn hay không. (3) Các giao thức DUS và VCU hiện tại được thiết kế cho các cây trồng có tầm quan trọng kinh tế chính và không thích hợp cho các cây trồng phụ. Các phương án đăng ký thay thế được coi là hạn chế và không có khả năng bảo hộ giống. Do đó, nhu cầu được xác định để thích ứng với các giao thức DUS và VCU. Bất đồng tồn tại về cách thức thích ứng. (4) Trong toàn EU, việc khảo nghiệm giống diễn ra ở các cấp độ khác nhau của cơ cấu tổ chức và thiết kế khảo nghiệm. Tiêu chuẩn hóa thử nghiệm giống hữu cơ có thể cải thiện chất lượng thử nghiệm, và do đó, tăng khối lượng giống hữu cơ và giống thích nghi. Sự hỗ trợ của chính phủ đối với chọn tạo giống hữu cơ và khảo nghiệm giống hữu cơ là rất quan trọng.

Hình 2: Sản phẩm muốn đạt chứng nhận hữu cơ, thì giống sản xuất phải là nguồn rõ ràng, có chứng nhận hữu cơ. Nên việc chọn lựa giống sản xuất là rất quan trọng, lựa chọn phù hợp với nhu cầu thị trường để doanh nghiệp hỗ trợ đầu ra dễ dàng hơn.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25. Vùng chuyên canh lúa đang ưu tiên chọn giống gạo hạt tròn Japonica (DS1) được ưa chuộng tại Nhật và nhiều nước khác.

Trong hình là giống lúa DS1 đựợc nông dân tại HTX Thành Công sản xuất trong khuôn khổ đề tài 4H năm 2021. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI)

  1. Nhu cầu chọn tạo các giống cây trồng thích hợp cho canh tác hữu cơ, sử dụng lúa mì, cà chua và bông cải xanh làm ví dụ

8cbce61e8dd04a8e13c1

 Người ta ước tính rằng hơn 95% sản xuất hữu cơ dựa trên các giống cây trồng đã được lai tạo cho lĩnh vực đầu vào sản xuất thông thường. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các giống này thiếu các đặc điểm quan trọng cần thiết trong điều kiện sản xuất hữu cơ và sản xuất với đầu vào thấp. Điều này chủ yếu là do việc chọn lọc trong các chương trình nhân giống thông thường được thực hiện trên cơ sở phân bón vô cơ cao và các chất đầu vào bảo vệ thực vật cao. Ngoài ra, một số đặc điểm (ví dụ, kiểu gen bán lùn) đã được đưa vào để giải quyết các vấn đề như đổ ngã trong ngũ cốc trong hệ thống đầu vào cao đã được chứng minh là có tác dụng phụ tiêu cực (giảm khả năng chống lại các bệnh như Septoria, hàm lượng protein thấp hơn và hiệu quả sử dụng chất dinh dưỡng kém hơn) về năng suất của các giống trong điều kiện nông học hữu cơ và đầu vào thấp. Bài báo tổng quan này sử dụng lúa mì, cà chua và bông cải xanh làm ví dụ, đã mô tả như sau: (1) các đặc điểm chính cần có trong điều kiện đầu vào thấp, (2) các chương trình nhân giống hiện tại cho nông nghiệp hữu cơ, đầu vào thấp, (3) các phương pháp chọn giống hiện có và / hoặc các phương pháp tiếp cận lựa chọn, và (4) những lợi ích và tác dụng phụ tiêu cực tiềm ẩn của các phương pháp chọn giống khác nhau và khả năng chấp nhận tương đối của chúng theo các nguyên tắc canh tác hữu cơ. (E.T.Lammerts van Bueren và ctv, 2011).

Hình 3: Ngoài sản xuất lúa, các sản phẩm từ rau màu, cây ăn quả cũng được thúc đẩy xây dựng sản xuất theo quy trình hữu cơ, giá trị dinh dưỡng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường cao. Cần được sự quan tâm tư nhà nước, doanh nghiệp hỗ trợ xây dựng vùng trồng và hỗ trợ đầu ra.

Hình trên, nhóm cán bộ Viện AOI gặp gỡ doanh nghiệp, cơ quan quản lý NN Thành phố Cần Thơ thúc đẩy xây dựng mô hình rau, cây ăn quả hữu cơ tại TP. Cần Thơ cuối năm 2021. (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI)

 

 

 

  1. Bằng chứng về sự thích nghi của giống đối với các hệ thống canh tác hữu cơ

     Tác giả Kevin Murphy và ctv, (2007) cho rằng, nhu cầu của người tiêu dùng thay đổi do các tác động của nông nghiệp thông thường đối với môi trường và sức khỏe con người đã thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống canh tác hữu cơ; tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ thường bị chỉ trích là năng suất thấp và không thể sản xuất đủ lương thực để cung cấp cho dân số thế giới.

a5c20d44668aa1d4f89b

     Sử dụng lúa mì như một loài cây trồng kiểu mẫu, chúng tôi chỉ ra rằng những giống cây trồng kém thích nghi là nguyên nhân một phần dẫn đến năng suất thấp hơn thường thấy trong các hệ thống canh tác hữu cơ khi so sánh với các hệ thống canh tác thông thường. Kết quả của chúng tôi chứng minh rằng các kiểu gen lúa mì mùa đông cho gạo trắng, mềm, năng suất cao nhất trong các hệ thống thông thường không phải là các kiểu gen năng suất cao nhất trong các hệ thống hữu cơ.

     Một phân tích phương sai về năng suất giữa 35 kiểu gen giữa hệ thống hữu cơ và thông thường được so sánh cặp cho thấy kiểu gen × tương tác hệ thống có ý nghĩa cao (P <0,001) ở bốn trong năm địa điểm nghiên cứu. Phân tích xếp hạng kiểu gen sử dụng hệ số tương quan thứ hạng của Spearman (RS) cho thấy không có mối tương quan giữa xếp hạng kiểu gen đối với năng suất ở bốn trong năm địa điểm nghiên cứu; tuy nhiên, các cấp bậc có tương quan với trọng lượng thử nghiệm ở cả năm địa điểm.

     Điều này chỉ ra rằng việc tăng năng suất trong các hệ thống hữu cơ thông qua chọn tạo giống sẽ đòi hỏi sự lựa chọn trực tiếp trong các hệ thống hữu cơ hơn là sự lựa chọn gián tiếp trong các hệ thống thông thường. Chọn lọc trực tiếp trong các hệ thống hữu cơ tạo ra năng suất cao hơn 15%, 7%, 31% và 5% so với năng suất do chọn lọc gián tiếp cho các địa điểm 1–4, tương ứng. Với các giống cây trồng được lai tạo và thích nghi với các điều kiện độc đáo vốn có trong hệ thống hữu cơ, nông nghiệp hữu cơ sẽ có thể phát huy hết tiềm năng của nó như một giải pháp thay thế năng suất cao đối với nông nghiệp thông thường. (Kevin Murphy và ctv, 2007).

Hình 4: Ở Việt Nam, ngoài lúa, các giống cây công nghiệp có giá trị kinh tế đang dần đi vào sản xuất hữu cơ có chứng nhận. Tiêu hữu cơ đã được chứng nhận đạt các tiêu chuẩn quốc tế tại Kiên Giang, Tây Nguyên từ năm 2018 (với các giống tiêu Phú, Quóc, Vĩnh Linh). Cà phê hữu cơ bắt đầu được chứng nhận tiêu chuẩn hữu cơ EU và USDA từ năm 2022 tại HTX Linh Nham, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Hình trên, bên trái: Mô hình tiêu hữu cơ được chứng nhận các tiêu chuẩn quóc tế đầu tiên tại huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang năm 2017. Hình bên phải: Đoàn cán bộ Viện AOI gặp gỡ các doanh nghiêp trên Tây Nguyên thúc đẩy xây dựng các mô hình tiêu, cà phê bền vững, hữu cơ (năm 2020). (Nguồn: Nhóm Admin Viện AOI).

  1. Tính khả thi của các kỹ thuật chọn tạo giống mới trong canh tác hữu cơ

     Tác giả Martin Marchman Andersen và ctv (2015) cho rằng Nông nghiệp hữu cơ dựa trên khái niệm tác động ‘Với thiên nhiên’ thay vì chống lại nó; tuy nhiên, so sánh với canh tác thông thường, canh tác hữu cơ được báo cáo có năng suất thấp hơn. Lý tưởng nhất, mục tiêu phải là thu hẹp khoảng cách năng suất này. Trong bài đánh giá này, tác giả đặc biệt thảo luận về tính khả thi của các kỹ thuật chọn giống mới (NBT- new breeding techniques) để phục hồi (rewilding), một  quá trình liên quan đến việc giới thiệu lại các thuộc tính từ các họ hàng hoang dã của cây trồng, như một phương pháp thu hẹp khoảng cách năng suất. Hiệu quả nhất của phương pháp rewilding (người viết tạm gọi là phục hồi),  dựa trên kỹ thuật công nghệ sinh học hiện đại, vẫn chưa được chấp nhận bởi phong trào nông nghiệp hữu cơ. Do đó, câu hỏi đặt ra về việc liệu việc áp dụng các phương pháp đó có khả thi hay không, không chỉ từ góc độ công nghệ, mà còn từ khái niệm, kinh tế xã hội, đạo đức và quy định về quan điểm. 

Bài báo đi đến Kết luận

     Hầu như ngày càng có nhiều sự công nhận giữa các nhà chọn giống và nông dân rằng các đặc điểm tự nhiên có giá trị đã bị mất ở cả hai hệ thống cây trồng thông thường và hữu cơ. Một sự hiểu biết chung sự khác biệt giữa canh tác hữu cơ và thông thường là NN hữu cơ là cấm sử dụng hóa chất hòa tan đầu vào cũng như thuốc diệt cỏ tổng hợp và thuốc diệt sâu bệnh. Một số NBT (công nghệ chọn giống mới) dường như đại diện cho một phương tiện khả thi để giảm nhu cầu về các hóa chất đó. Trái ngược với chuyển gen, nơi các gen mới được đưa vào một sinh vật, nhân giống ngược là một kỹ thuật đưa cây trồng trở lại tự nhiên bằng cách trang bị cho chúng những vật liệu đã mất mà tổ tiên chúng đã từng có. Các ví dụ hiện có về các nguyên lý hữu cơ do IFOAM đề xướng đã bác bỏ kỹ thuật di truyền trên tiền đề rằng nó không thể đoán trước được (tủi ro). Tuy nhiên, đây không phải là một xác định thuộc tính của kỹ thuật di truyền, nhưng có thể thay đổi vấn đề thực nghiệm. Cụ thể, có vẻ như các sinh vật được phục hồi (rewilding) hoàn toàn thành công sẽ không còn (vấn đề) không thể đoán trước được nữa hoặc rủi ro hơn tổ tiên của chúng. Hơn nữa, trong các cuộc tranh luận liên quan đến nông nghiệp, người ta thường khẳng định rằng "tính bền vững", "Tính tự nhiên" và "tính toàn vẹn" thể hiện mối quan tâm vốn dĩ không tương thích với NBTs hoặc rewilding. Tuy nhiên, Không rõ tại sao điều này phải như vậy, mặc dù nó phải được thừa nhận rằng nó có thể như vậy đối với một số nhóm, tùy thuộc vào cách giải thích của họ. Cuối cùng, phải lưu ý rằng tiềm năng sử dụng NBTs trong canh tác hữu cơ là giới hạn trong EU, nơi mà khuôn khổ quy định hiện tại dựa trên quy trình và do đó, sẽ phân loại các sản phẩm chuyên nghiệp được tạo ra bằng cách sử dụng NBT như là GMO. (Martin Marchman Andersen và ctv, 2015)

6. Những nghiên cứu về giống lúa trong sản xuất hữu cơ trên thế giới

     Vanaja, T. và ctv., (2013) đã viết: phát triển giống cây trồng mà ít phụ thuộc vào phân bón hóa học là một giải pháp bền vững cho sản xuất nông nghiệp. Nhóm tác giả này đã phát triển một giống lúa mới, là một kiểu giống đầu tiên có tiêu chí tổng quát của một giống lúa hữu cơ, đồng thời cũng thích hợp cho sản xuất vô cơ, và với chất lượng cơm ngon và dinh dưỡng cao. Các phương pháp được áp dụng để phát triển giống cây trồng này là một chiến lược kết hợp chọn giống theo phả hệ, nhân giống cây trồng hữu cơ, và các phương pháp chọn tạo có sự tham gia của nông dân. Quan tâm việc chọn tiêu chuẩn nhiều hạt, năng suất hạt cao và tiềm năng năng suất rơm rạ cao thậm chí trong điều kiện sản xuất hữu cơ và điều kiện đất không thuận lợi. Đồng thời với các tiêu chuẩn chất lượng gạo ngon và các đặc điểm về giống lúa hữu cơ. Nông dân bắt đầu sử dụng giống này canh tác trên diện rộng ngay cả trước khi nó được phóng thích thương mại. Giống có tên gọi là Culture MK 157, là một giống mới được phóng thích ở tiểu bang Kerala của Ấn Độ.

     Jingqi Guo (2016), qua nghiên cứu về ảnh hưởng của giống lúa và quản lý dinh dưỡng trong sản xuất lúa hữu cơ, tác giả đi đến kết luận quan trọng: ‘Trong hệ thống sản xuất lúa hữu cơ, giống lúa cũng là một yếu tố căn bản ảnh hưởng sản xuất như năng suất và thành phần năng suất, trong hoặc như một nguồn duy nhất của sự biến đổi hoặc tương tác với điều kiện môi trường và quản lý dinh dưỡng. Là một thành phần quan trọng của chất lượng hạt, chất lượng protein trong nghiên cứu này đã được chứng minh liên quan chặt chẽ với giống lúa’.

7. Những nghiên cứu về chọn tạo giống lúa tại ĐBSCL

     Trong số các giống lúa được tạo ra ở nước ta phần lớn là do lai tạo. Hiện nay, chúng ta có rất đa dạng các giống lúa về thời gian sinh trưởng ngắn ngày, cho đến dài ngày, giống lúa năng suất cao phẩm chất tốt, giống lúa thơm đặc sản… có khả năng đáp ứng được cơ bản những thị trường dễ tính cho đến khó tính. Một số giống lúa đang được thịnh hành theo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là các giống lúa do cơ quan nhà nước, công ty và cá nhân lai tạo tuyển chọn ra như: Viện Lúa ĐBSCL các giống lúa OM như OM 4900, OM 3536, OM 5451, OM 18, …; Công ty do anh hùng lao động Hồ Quang Cua sáng lập tạo ra các giống ST nổi tiếng số 1 và số 2 thế giới là ST25 và ST24…; cá nhân như nông dân Danh Dưỡng, ở Thoại Sơn, An Giang, có tạo chọn giống lúa Hồng Ngọc (Óc Eo), giống lúa tím than (được công ty quan tâm phát triển sản phẩm hữu cơ). Giống lúa AG1 do tác giả Huỳnh Quang Tín (Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long) và cộng sự lai chọn. Giống có thời gian sinh trưởng từ 90-95 ngày. Năng suất trung bình đạt 7-8 tấn/ha. Tỷ lệ gạo nguyên: 48,6-48,7%; tỷ lệ bạc bụng: 0,7-09%; chiều dài hạt gạo: 7,12-7,13 mm; tỷ lệ D/R: 3,3; hàm lượng Amylose khoảng 14,6%. Chất lượng cơm mềm dẽo; thơm nhẹ; hàm lượng protein đạt mức trung bình (8,7%); giống kháng được bệnh cháy lá cấp 1-3 và thích nghi được với đấy phèn và mặn.

     Các giống lúa Mùa của An Giang được bảo tồn thông qua sản phẩm chế biến do chất lượng gạo chưa cao. Ngoài ra có một số giống lúa của Công ty Lộc Trời, các giống lúa ngoại nhập của Nhật Bản, Thái Lan và của Viện lúa quốc tế IRRI …

     Những thành tựu trên là sự nỗ lực của các nhà khoa học và quản lý nông nghiệp góp phần tích cực nâng cao sản lượng và diện tích lúa trên toàn quốc. Vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá từng giống lúa thích hợp với các vùng sinh thái và kỹ thuật canh tác nhằm phát huy hết tiềm năng của giống là một biện pháp hữu ích, mang lại hiệu quả cho sản xuất.

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ KINH TẾ XÃ HỘI SẢN XUẤT LÚA GẠO HỮU CƠ

Nhóm Admin xin giới thiệu bài tổng quan dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Tình hình sản xuất lúa gạo hữu cơ trên thế giới

Theo thống kê của tổ chức FiBL (FiBL Statistics - Area for selected crops, online 27/6/2022), diện tích sản xuất lúa hữu cơ tính đến năm 2020 là 623.195,43 ha. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hữu cơ nói chung và lúa hữu cơ nói riêng trên thế giới mới chỉ bắt đầu với diện tich nhỏ. Tính đến 2017, chưa đến 2% tổng diện tích lúa của Hoa Kỳ được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Và hầu hết được trồng ở California và Texas. (Kathleen Phillips, 2017).

Về thị trường, theo Business Wire (2022), đã theo dõi thị trường gạo hữu cơ cho biết nó đã sẵn sàng để tăng 1,76 tỷ đô la trong giai đoạn 2020-2024, đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6% trong giai đoạn dự báo.

Các báo cáo về thị trường gạo hữu cơ cung cấp phân tích tổng thể, quy mô thị trường và dự báo, xu hướng, động lực tăng trưởng và thách thức, cũng như phân tích nhà cung cấp bao gồm khoảng 25 nhà cung cấp.

Được biết thị trường được thúc đẩy bởi nhận thức ngày càng cao về các sản phẩm thực phẩm không chứa gluten và tiêu thụ gạo hữu cơ ngày càng tăng.

Phân tích thị trường gạo hữu cơ bao gồm phân khúc sản phẩm và cảnh quan địa lý. Nghiên cứu này xác định việc sử dụng ngày càng nhiều bột gạo hữu cơ là một trong những lý do chính thúc đẩy thị trường gạo hữu cơ tăng trưởng trong vài năm tới.

Hình 1: Các dự án Sản xuất lúa hữu cơ cần có sự tổ chức liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp tham gia dự án. Do đó, khi mới bắt đầu, dự án cần sự hỗ trợ và thức đẩy của “4 nhà”. Trong đó, sự liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân/HTX quyết định hiệu quả của dự án.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở THT ấp 15, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2021.

  1. Hiệu quả kinh tế xã hội sản xuất lúa hữu cơ

Ấn Độ hiện nay là một trong những nước có nhiều sản phẩm sản xuất hữu cơ nhất thế giới và cũng có nhiều cơ quan nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhất. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác và áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa hữu cơ và so sánh với vô cơ như sau:

Báo cáo của Y.V. Singh (2011), cho một số thông tin quan trọng liên quan đến sản xuất lúa hữu cơ như : Nông dân Ấn Độ từ xa xưa đã trồng trọt hữu cơ; Dần dần chuyển sang canh tác áp dụng hóa học từ những năm 1950; Phương pháp hóa học gia tăng trong cuộc cách mạng xanh; Việc sử dụng hóa học tự do đã dẫn đến rủi ro cho sức khỏe; Nhiều báo cáo về ô nhiễm không khí, nước và đất ở khắp mọi nơi; Độ màu mỡ của đất giảm ở nhiều vùng sinh thái; Năng suất không tăng và hiệu quả sản xuất giảm. Từ đó gia tăng nhu cầu phát triển thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường và khuynh hướng mới bắt đầu trở lại sản xuất hữu cơ.

Thomas Marmefelt, (2011) cho rằng, như nhiều nước kém phát triển khác, nông dân Lào phụ thuộc rất nặng nề vào sản xuất tự cung, tự cấp dựa vào nông nghiệp sinh kế của họ. Một yếu tố quan trọng cho việc cho gia tăng phúc lợi cho người dân nông thôn ở Lào đặc biệt là cho nông dân sản xuất nhỏ, là gia tăng lợi nhuận trong sản xuất. Một giải pháp khả thi trong việc gia tăng lợi nhuận cho nông dân Lào là dịch chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ định hướng xuất khẩu, bởi vì thị trường quốc tế cho lúa gạo hữu cơ đang phát triển, người tiêu thụ hữu cơ sẵn sàng mua sản phẩm có giá trị ưu đãi hơn sản phẩm thông thường và các điều kiện cho sản xuất lúa hữu cơ là khá thuận lợi ở Lào. Sản xuất lúa hữu cơ ở Lào đã phát triển trong thập kỹ qua khi có một số lượng sản phẩm lúa hữu cơ khá lớn sản xuất và xuất khẩu. Lúa hữu cơ chủ yếu sản xuất bởi nông hộ sản xuất nhỏ trong các dự án tài trợ hoặc nông dân hợp đồng cung cấp cho các công ty nông nghiệp.

22

Hình 2: Nhằm giúp cho nông dân tham gia dự án sản xuất lúa hữu cơ cơ thu nhập cao, doanh nghiệp cần chọn giống lúa phù họp vùng dự án, đáp ưng đầy đủ chất lượng và số lượng theo nhu cầu thị trường.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25.

Trong hinh là giống lúa ST 24 đựợc nông dân sản xuất trong mô hình liên kết sản xuất lúa hữu cơ tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh năm 2020.

Sa Kennvidy (2011) nhấn mạnh rằng canh tác hữu cơ là một hệ thống quan trọng của nông nghiệp và sản xuất lương thực, đó là gìn giữ môi trường bền vững và có thể tạo ra nhiều tác động tích cực đối với cộng đồng nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Cambodia đang ở giai đoạn bắt đầu. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định nhận thức của nông dân về trồng lúa hữu cơ và phân tích hiệu quả kinh tế của hệ thống. Thu thập dữ liệu đã được tiến hành thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn, hai loại bảng câu hỏi và quan sát cá nhân trong khi thống kê mô tả và suy luận được phân tích với việc sử dụng các phần mềm thống kê cho ngành khoa học xã hội hoặc phần mềm SPSS. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy đa số nông dân chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bởi vì giá bán cao với sản phẩm hữu cơ và thu nhập của họ được gia tăng 15 % so với canh tác thông thường. Thích ứng với trồng lúa hữu cơ có thể làm tăng năng suất lúa lên 5 % từ 2,46 lên 2,59 tấn mỗi ha. Chênh lệch gia tăng sản lượng lúa tương đương với 21 %. Hơn nữa, hệ thống canh tác hữu cơ có thể được ổn định hơn từ việc phân tích hiệu quả kinh tế cao hơn so với hệ thống canh tác thông thường.

Thomas Marmefelt, (2011) cũng nghiên cứu nguyên nhân đằng sau việc chuyển đổi cấu trúc này bằng cách kết hợp các lý thuyết kinh tế tiến hóa bởi các nhà lý thuyết như Schumpeter, (1911); Dahmén, (1950) và Marmefelt, (1998); trong đó tập trung vào đổi mới doanh nghiệp và các ngân hàng cho vay làm cơ sở cho những thay đổi trong nền kinh tế. Bằng cách thực hiện một phân tích chuyển đổi từ mô hình của Dahménian của quá trình chuyển đổi từ mô hình thông thường – sang sản xuất lúa hữu cơ trong khối phát triển xung quanh sản xuất lúa tại Lào, để xác định áp lực gây nên sự chuyển đổi diễn ra. Nhấn mạnh đặc biệt cho vai trò của nông nghiệp hợp đồng (contract farming) trong quá trình này. Các phân tích cho thấy hai loại áp lực chuyển đổi rất có thể đã làm cho nông dân chuyển đổi sản xuất hữu cơ. Trước hết nó có khả năng là mức giá tương đối cao hơn trả cho lúa hữu cơ (cao hơn so với lúa thông thường là 42 phần trăm) đã thuyết phục nông dân trong quá trình chuyển đổi. Đây là loại áp lực chuyển đổi có thể được xem như thị trường lôi kéo, vì nó bắt nguồn từ một nhu cầu tăng tại các thị trường quốc tế, do đó làm tăng giá tương đối cho sản phẩm. Điều này đã dẫn đến năng suất tăng lên, kết hợp với giá cao, tạo ra lợi nhuận cao hơn cho nông dân hợp đồng hữu cơ. Việc đổi mới phương pháp sản xuất có thể được xem như một loại thị trường đẩy áp lực chuyển đổi nguồn gốc từ phía cung.

Trong bài báo, tác giả cho rằng nó không chắc rằng việc chuyển đổi sẽ xảy ra nếu không có sự tham gia của các công ty nông nghiệp hợp đồng. Ngay chính riêng mình, người nông dân đã không có phương tiện để phát triển lúa gạo hữu cơ, cũng không phải là kênh thị trường thích hợp để chế biến và bán gạo hữu cơ trên thị trường quốc tế. Tác giả lập luận rằng khả năng nuôi công ty của hợp đồng để tạo điều kiện thông tin tín hiệu giá từ thị trường quốc tế cho nông dân, cung cấp quyền truy cập vào các thị trường mới thông qua các liên kết thị trường và cung cấp các khoản tín dụng cho đầu vào mới cũng như hỗ trợ kỹ thuật về cơ bản chuyển sang làm lúa hữu cơ.

Tuy nhiên các phân tích cũng cho thấy rằng các công ty nông nghiệp hợp đồng bị hạn chế khả năng để thực hiện đầy đủ vai trò của nó như là một điều phối viên trong những tiến bộ của sản xuất lúa hữu cơ, trong điều khoản của một ngân hàng, vì khả năng hạn chế để giải quyết vướng mắc trong chuỗi giá trị. Lý do cho điều này chủ yếu là giới hạn nguồn lực tài chính để tài trợ cho các khoản đầu tư bổ sung vào các bộ phận khác cùng khối phát triển.

3132

Hình 3: Ngoài gióng lúa có chất lượng gạo ngon nhất nhì thế giới được trồng ở vùng lúa-tôm, các dự án lúa hữu cơ còn nhu cầu các giống lúa Japonica , gạo tròn , cơm dểo, chất lượng thơm ngon phục vụ cho các thị trường nhu cầu như Nhật Bản, các nước Châu Á và các nước khác.

Hinh giới thiệu mô hình lúa hữu cơ liên kết sản xuất gióng lúa Nhật DS 1 tại huyện Tri Tôn, An Giang năm 2020-2021.

Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang

 

BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ KINH TẾ XÃ HỘI SẢN XUẤT LÚA GẠO HỮU CƠ

Nhóm Admin xin giới thiệu bài tổng quan dưới đây do Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang tổng hợp:

  1. Tình hình sản xuất lúa gạo hữu cơ trên thế giới

Theo thống kê của tổ chức FiBL (FiBL Statistics - Area for selected crops, online 27/6/2022), diện tích sản xuất lúa hữu cơ tính đến năm 2020 là 623.195,43 ha. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hữu cơ nói chung và lúa hữu cơ nói riêng trên thế giới mới chỉ bắt đầu với diện tich nhỏ. Tính đến 2017, chưa đến 2% tổng diện tích lúa của Hoa Kỳ được sản xuất theo phương pháp hữu cơ. Và hầu hết được trồng ở California và Texas. (Kathleen Phillips, 2017).

Về thị trường, theo Business Wire (2022), đã theo dõi thị trường gạo hữu cơ cho biết nó đã sẵn sàng để tăng 1,76 tỷ đô la trong giai đoạn 2020-2024, đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 6% trong giai đoạn dự báo.

Các báo cáo về thị trường gạo hữu cơ cung cấp phân tích tổng thể, quy mô thị trường và dự báo, xu hướng, động lực tăng trưởng và thách thức, cũng như phân tích nhà cung cấp bao gồm khoảng 25 nhà cung cấp.

Được biết thị trường được thúc đẩy bởi nhận thức ngày càng cao về các sản phẩm thực phẩm không chứa gluten và tiêu thụ gạo hữu cơ ngày càng tăng.

Phân tích thị trường gạo hữu cơ bao gồm phân khúc sản phẩm và cảnh quan địa lý. Nghiên cứu này xác định việc sử dụng ngày càng nhiều bột gạo hữu cơ là một trong những lý do chính thúc đẩy thị trường gạo hữu cơ tăng trưởng trong vài năm tới.

Hình 1: Các dự án Sản xuất lúa hữu cơ cần có sự tổ chức liên kết giữa nông dân và các doanh nghiệp tham gia dự án. Do đó, khi mới bắt đầu, dự án cần sự hỗ trợ và thức đẩy của “4 nhà”. Trong đó, sự liên kết chặt chẽ từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân/HTX quyết định hiệu quả của dự án.

Hình giới thiệu hoạt động liên kết được thực hiện ở THT ấp 15, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2021.

  1. Hiệu quả kinh tế xã hội sản xuất lúa hữu cơ

Ấn Độ hiện nay là một trong những nước có nhiều sản phẩm sản xuất hữu cơ nhất thế giới và cũng có nhiều cơ quan nghiên cứu về sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhất. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác và áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa hữu cơ và so sánh với vô cơ như sau:

Báo cáo của Y.V. Singh (2011), cho một số thông tin quan trọng liên quan đến sản xuất lúa hữu cơ như : Nông dân Ấn Độ từ xa xưa đã trồng trọt hữu cơ; Dần dần chuyển sang canh tác áp dụng hóa học từ những năm 1950; Phương pháp hóa học gia tăng trong cuộc cách mạng xanh; Việc sử dụng hóa học tự do đã dẫn đến rủi ro cho sức khỏe; Nhiều báo cáo về ô nhiễm không khí, nước và đất ở khắp mọi nơi; Độ màu mỡ của đất giảm ở nhiều vùng sinh thái; Năng suất không tăng và hiệu quả sản xuất giảm. Từ đó gia tăng nhu cầu phát triển thực phẩm an toàn và bảo vệ môi trường và khuynh hướng mới bắt đầu trở lại sản xuất hữu cơ.

Thomas Marmefelt, (2011) cho rằng, như nhiều nước kém phát triển khác, nông dân Lào phụ thuộc rất nặng nề vào sản xuất tự cung, tự cấp dựa vào nông nghiệp sinh kế của họ. Một yếu tố quan trọng cho việc cho gia tăng phúc lợi cho người dân nông thôn ở Lào đặc biệt là cho nông dân sản xuất nhỏ, là gia tăng lợi nhuận trong sản xuất. Một giải pháp khả thi trong việc gia tăng lợi nhuận cho nông dân Lào là dịch chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất hữu cơ định hướng xuất khẩu, bởi vì thị trường quốc tế cho lúa gạo hữu cơ đang phát triển, người tiêu thụ hữu cơ sẵn sàng mua sản phẩm có giá trị ưu đãi hơn sản phẩm thông thường và các điều kiện cho sản xuất lúa hữu cơ là khá thuận lợi ở Lào. Sản xuất lúa hữu cơ ở Lào đã phát triển trong thập kỹ qua khi có một số lượng sản phẩm lúa hữu cơ khá lớn sản xuất và xuất khẩu. Lúa hữu cơ chủ yếu sản xuất bởi nông hộ sản xuất nhỏ trong các dự án tài trợ hoặc nông dân hợp đồng cung cấp cho các công ty nông nghiệp.

22

Hình 2: Nhằm giúp cho nông dân tham gia dự án sản xuất lúa hữu cơ cơ thu nhập cao, doanh nghiệp cần chọn giống lúa phù họp vùng dự án, đáp ưng đầy đủ chất lượng và số lượng theo nhu cầu thị trường.

Hiện nay ở ĐBSCL, vùng lúa-tôm các dự án sản xuất lúa hữu cơ thường áp dụng giống lúa có chất lượng ngon nhất, nhì thế giới như ST 24, ST 25.

Trong hinh là giống lúa ST 24 đựợc nông dân sản xuất trong mô hình liên kết sản xuất lúa hữu cơ tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh năm 2020.

Sa Kennvidy (2011) nhấn mạnh rằng canh tác hữu cơ là một hệ thống quan trọng của nông nghiệp và sản xuất lương thực, đó là gìn giữ môi trường bền vững và có thể tạo ra nhiều tác động tích cực đối với cộng đồng nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Cambodia đang ở giai đoạn bắt đầu. Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định nhận thức của nông dân về trồng lúa hữu cơ và phân tích hiệu quả kinh tế của hệ thống. Thu thập dữ liệu đã được tiến hành thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn, hai loại bảng câu hỏi và quan sát cá nhân trong khi thống kê mô tả và suy luận được phân tích với việc sử dụng các phần mềm thống kê cho ngành khoa học xã hội hoặc phần mềm SPSS. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy đa số nông dân chuyển đổi sang canh tác hữu cơ bởi vì giá bán cao với sản phẩm hữu cơ và thu nhập của họ được gia tăng 15 % so với canh tác thông thường. Thích ứng với trồng lúa hữu cơ có thể làm tăng năng suất lúa lên 5 % từ 2,46 lên 2,59 tấn mỗi ha. Chênh lệch gia tăng sản lượng lúa tương đương với 21 %. Hơn nữa, hệ thống canh tác hữu cơ có thể được ổn định hơn từ việc phân tích hiệu quả kinh tế cao hơn so với hệ thống canh tác thông thường.

Thomas Marmefelt, (2011) cũng nghiên cứu nguyên nhân đằng sau việc chuyển đổi cấu trúc này bằng cách kết hợp các lý thuyết kinh tế tiến hóa bởi các nhà lý thuyết như Schumpeter, (1911); Dahmén, (1950) và Marmefelt, (1998); trong đó tập trung vào đổi mới doanh nghiệp và các ngân hàng cho vay làm cơ sở cho những thay đổi trong nền kinh tế. Bằng cách thực hiện một phân tích chuyển đổi từ mô hình của Dahménian của quá trình chuyển đổi từ mô hình thông thường – sang sản xuất lúa hữu cơ trong khối phát triển xung quanh sản xuất lúa tại Lào, để xác định áp lực gây nên sự chuyển đổi diễn ra. Nhấn mạnh đặc biệt cho vai trò của nông nghiệp hợp đồng (contract farming) trong quá trình này. Các phân tích cho thấy hai loại áp lực chuyển đổi rất có thể đã làm cho nông dân chuyển đổi sản xuất hữu cơ. Trước hết nó có khả năng là mức giá tương đối cao hơn trả cho lúa hữu cơ (cao hơn so với lúa thông thường là 42 phần trăm) đã thuyết phục nông dân trong quá trình chuyển đổi. Đây là loại áp lực chuyển đổi có thể được xem như thị trường lôi kéo, vì nó bắt nguồn từ một nhu cầu tăng tại các thị trường quốc tế, do đó làm tăng giá tương đối cho sản phẩm. Điều này đã dẫn đến năng suất tăng lên, kết hợp với giá cao, tạo ra lợi nhuận cao hơn cho nông dân hợp đồng hữu cơ. Việc đổi mới phương pháp sản xuất có thể được xem như một loại thị trường đẩy áp lực chuyển đổi nguồn gốc từ phía cung.

Trong bài báo, tác giả cho rằng nó không chắc rằng việc chuyển đổi sẽ xảy ra nếu không có sự tham gia của các công ty nông nghiệp hợp đồng. Ngay chính riêng mình, người nông dân đã không có phương tiện để phát triển lúa gạo hữu cơ, cũng không phải là kênh thị trường thích hợp để chế biến và bán gạo hữu cơ trên thị trường quốc tế. Tác giả lập luận rằng khả năng nuôi công ty của hợp đồng để tạo điều kiện thông tin tín hiệu giá từ thị trường quốc tế cho nông dân, cung cấp quyền truy cập vào các thị trường mới thông qua các liên kết thị trường và cung cấp các khoản tín dụng cho đầu vào mới cũng như hỗ trợ kỹ thuật về cơ bản chuyển sang làm lúa hữu cơ.

Tuy nhiên các phân tích cũng cho thấy rằng các công ty nông nghiệp hợp đồng bị hạn chế khả năng để thực hiện đầy đủ vai trò của nó như là một điều phối viên trong những tiến bộ của sản xuất lúa hữu cơ, trong điều khoản của một ngân hàng, vì khả năng hạn chế để giải quyết vướng mắc trong chuỗi giá trị. Lý do cho điều này chủ yếu là giới hạn nguồn lực tài chính để tài trợ cho các khoản đầu tư bổ sung vào các bộ phận khác cùng khối phát triển.

3132

Hình 3: Ngoài gióng lúa có chất lượng gạo ngon nhất nhì thế giới được trồng ở vùng lúa-tôm, các dự án lúa hữu cơ còn nhu cầu các giống lúa Japonica , gạo tròn , cơm dểo, chất lượng thơm ngon phục vụ cho các thị trường nhu cầu như Nhật Bản, các nước Châu Á và các nước khác.

Hinh giới thiệu mô hình lúa hữu cơ liên kết sản xuất gióng lúa Nhật DS 1 tại huyện Tri Tôn, An Giang năm 2020-2021.

Nhóm thực hiện Đề tài 4 H, nghiên cứu xây dựng mô hình lúa hữu cơ tại An Giang

 

Sản xuất hữu cơ là cách tốt nhất tránh nhiễm độc thực phẩm và nâng cao giá trị hàng xuất khẩu

Những nghiên cứu về nhiễm độc hóa chất trong nông sản đã cho thấy người tiêu thụ có thể đang bị chết dần chết mòn bởi những nông sản tưởng chừng như đang nuôi sống chúng ta mỗi ngày. Thậm chí, thương hiệu nông sản quốc gia bị đánh giá thấp trên trường quốc tế do nhiễm độc hóa chất bị trả về.

Hàng triệu người dân Việt Nam chắc hẳn đã nghe qua cụm từ “Vệ sinh an toàn thực phẩm”, nhưng có mấy ai tìm hiểu sâu và rộng về nguồn gốc, nguyên nhân của vấn đề này? “Vệ sinh an toàn thực phẩm” không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất chế biến, mà nó là cả một quy trình từ đồng ruộng, nguyên liệu đầu vào, đất, nước,... Để kiểm soát được vấn đề này chúng ta cần phải có thước đo kiểm soát, giới hạn ngưỡng gây nguy hiểm cho con người. Những vấn đề này hiện rất đễ xẩy ra trong các kiểu sản xuất mà chỉ hô hào là sạch, an toàn hay thậm chí GAP, bởi vì trong quy trình sản xuất này vẫn còn cho phép sử dụng một số hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV). Trong khi, sản xuất hữu cơ, thuốc BVTV hóa học hoàn toàn không được phép sử dụng.

Nghiên cứu về an toàn thực phẩm gần đây cho thấy rằng, bình quân mỗi người Việt tiêu thụ 0,9-1kg thuốc BVTV/năm (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022). Thuốc BVTV được sử dụng tại miền Bắc Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1955, thuốc hóa học nhanh chóng dập tắt dịch sâu bệnh hại. Trải qua gần 80 năm, Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh thuốc BVTV, khoảng 100 nhà máy sản xuất thuốc BVTV và hơn 30 ngàn đại lý buôn bán thuốc BVTV; Tính theo trọng lượng để so sánh thì Trung Quốc tiêu thụ 1,2 kg thuốc BVTV/người/năm còn Việt Nam là 0,9 kg/người/năm; Người ta ước tính rằng mỗi năm có khoảng 69.238 kg và 43.574 lít thuốc trừ sâu và 69.640 kg gói hóa chất được đưa vào môi trường sống mà không được xử lý thích hợp. Thị trường thuốc BVTV ngày càng mở rộng, trong khi công tác quản lý, thanh tra không kịp ứng phó, kiểm tra theo dõi, hàng hóa trôi nổi, nhãn mác trá hình, hoạt chất cấm độc hại len lỏi âm ỉ trong nông dân. (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022)

Hình 1. Vỏ bao thuốc BVTV vứt bừa bãi ở một vùng trồng rau (theo báo Nongnghiep.vn, 18/6/2022)

Viện Sức khỏe nghề nghiệp và Môi trường đã thực hiện một nghiên cứu trên 243 người ở vùng có nguy cơ cao tại Hà Nam (2020) và kết quả cho thấy : gần 85% người nông dân tiếp xúc với thuốc bảo thực vật có lượng tồn dư trong máu khá cao, cần phải đi làm tiếp các xét nghiệm. Một cuộc xét nghiệm nhanh với 67 người tại Hà Nội cũng cho thấy 1 nửa số này bị phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật. Con người tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV thông qua hoạt động nghề nghiệp, nông nghiệp, công việc nhà hoặc không trực tiếp thông qua thực phẩm. Da, miệng, mắt, thở là bốn con đường phổ biến mà thuốc BVTV có thể xâm nhập vào cơ thể con người. Sự phơi nhiễm liên tục với thuốc trừ sâu đã dẫn đến nhiều loại bệnh khác nhau trên con người bao gồm khả năng gây ung thư, gây độc cho hệ thần kinh, khả năng sinh sản, trao đổi chất và phát triển của con người. Trong đó, tiếp xúc với da là con đường bị nhiễm nhanh và phổ biến khi con người tiếp xúc với thuốc BVTV. (TS. Hứa Quốc Trung, 2020)

Hình 2. Gạo Việt xuất khẩu ồ ạt bị trả về vì "dính độc", (nguồn: Gạo 'dính độc' bị trả về: Xứ người chê thì xứ ta xài?; https.vietnamnet.vn, truy cập 24/6/2022)

Thông tin từ Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về Vệ sinh Dịch tễ và Kiểm dịch Động thực vật (SPS) Việt Nam, Bộ NN-PTNT, cho biết 1 lô hàng gạo thơm cao cấp giống ST25, nhãn hiệu Nữ hoàng, xuất khẩu vào Bỉ đã phải thu hồi sản phẩm, khuyến cáo người dân không sử dụng khi phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng cho phép, cụ thể là chất Tricyclazole - một hoạt chất được sử dụng rộng rãi làm thuốc trừ sâu trong ngành trồng lúa gạo (thanhnien.vn, 2021). Sự kiện này đã có bài báo nêu câu hỏi chua cay: Gạo “dính độc” bị trả về: Xứ người chê thì xứ ta xài? (vietnamnet.vn, truy cập 24/6/2022).

3.1

Hình 3. Một lô gạo thơm giống ST25 bị thu hồi tại Bỉ (baophunu, 2021)

Hiện trạng đáng buồn cho người dân Việt Nam, chúng ta đang đưa những hóa chất độc hại từ nguồn thực phẩm bẩn vào cơ thể của chúng ta và gia đình mỗi ngày một cách vô thức; Đã có ai thực sự nhận ra chưa? Nếu như đã nhận ra tại sao vẫn chấp nhận những sản phẩm nông nghiệp kém chất lượng? Tại sao chúng ta không sử dụng hoặc ủng hộ các sản phẩm Hữu cơ, an toàn cho con người và cả môi trường?. Những năm qua, bao nhiêu lần các sản phẩm nông sản của chúng ta bị trả về khi xuất khẩu do tồn dư thuốc BVTV, cụ thể gần đây là Gạo ST25 xuất sang Bỉ (nongnghiep.vn, 2022) bị trả về, rồi chúng sau khi bị trả về sẽ đi đâu. Chắc chắn là sử dụng cho tiêu dùng trong nước hoặc xuất sang Trung Quốc. Rất nhiều những bằng chứng, bài học, thất thoát, mất mát sâu sắc, thế nhưng chúng ta dường như chưa thật sự rút ra được bài học cho chính mình. Sự dễ dãi, vô tâm của chúng ta chính là những kẻ hở để những sản phẩm kém chất lượng len lỏi hàng ngày trong mỗi bữa ăn gia đình.

Hình 4. Theo Bộ Công Thương, các cơ quan kiểm dịch tại EU đều đã được thông báo và sẽ nâng các biện pháp kiểm dịch đối với dòng hàng hóa liên quan nhập khẩu từ Việt Nam (nguồn: nongnghiep.vn,2022)

Trên thế giới, xu hướng sử dụng các sản phẩm đạt chứng nhận hữu cơ theo tiêu chuẩn hữu cơ của Mỹ (USDA), Châu Âu (EU), Nhật (JAS), Úc…  ngày càng tăng. Các sản phẩm này được sản xuất đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình được đặt ra, sau đó được các tổ chức có thẩm quyền thông qua đánh giá và cấp chứng nhận thì mới được đưa ra thị trường. Các sản phẩm này đảm bảo không gây hại cho con người, cụ thể nói không 100% với tồn dư thuốc bảo vệ thực vật hóa học, kháng sinh, và chất biên đổi gen (GMO)… Đối với nước ta, việc sản xuất theo hữu cơ cơ chứng nhận như mới chỉ bắt đầu nhưng đã được một số tỉnh khuyến khích và đầu tư phát triển. Chúng ta hy vọng bước đột phá này sẽ lan nhanh từ các tỉnh như Sóc Trăng, Kon Tum, An Giang…

Hãy thay đổi tư duy, nhận thức ngay hôm nay, bằng việc khuyến khích sản xuất và sử dụng nguồn thực phẩm Hữu cơ trong gia đình, siết chặt hơn vấn đề sản xuất nông nghiệp an toàn, bền vững. Để thay đổi nhận thức và tập quán canh tác lâu đời của sản xuất thực sự là một quá trình cực kì khó khăn và gian nan. Cần sự quan tâm thực hiện, đầu tư, khuyến khích, hỗ trợ, cải tạo, xây dựng từ nhà nước, các tổ chức trong và ngoài nước. Phải quyết tâm bền bi, đồng sức đồng lòng mới có thể thực hiện được.

Hình 4. Các mô hình liên kết sản xuất hữu cơ đã hình thành và phát triển, cần quan tâm nhân rộng ra nhièu địa phương, nhiều cây, con…HTX tiêu hữu cơ Linh Nham, tỉnh Gia Lai là một điển hình (nguồn: Viện AOI).

Viện AOI chuyên nghiên cứu và phát triển Nông nghiệp Hữu cơ, nắm rõ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Quốc tế USDA, EU, JAS, Việt Nam… đã hỗ trợ nhiều HTX tại Việt Nam xây dựng các mô hình hữu cơ đạt chứng nhận như: HTX Linh Nham (sản phẩm tiêu, cà phê hữu cơ), HTX Tiến Đạt (Gạo Hữu cơ),… hợp tác cùng hàng chục Doanh nghiệp xây dựng thành công mô hình sản xuất lúa hữu cơ có chứng nhận quốc tế và kết nối đưa sản phẩm của các Doanh nghiệp xuất khẩu ra thế giới. Sứ mệnh lớn nhất của Viện AOI là không ngừng lan tỏa, phát triển Nông nghiệp Hữu cơ đến khắp mọi nơi. Trong quá trình đó, chúng tôi rất cần sự cộng tác, thấu hiều từ các cấp nhà nước, sự đồng lòng cộng tác của doanh nghiệp và bà con nông dân để cùng nhau thực hiện được sứ mệnh này. Chúng tôi luôn tin tưởng vào nền Nông nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ tiến bộ hơn, sản xuất hữu cơ ngày một nhiều hơn; vì chỉ có sản xuất hữu cơ chúng ta mới có thể đảm bảo tốt nhất cho phát triển bền vững.

Nhóm Admin Viện AOI

Tài liệu tham khảo:

https://nongnghiep.vn/khung-khiep-binh-quan-moi-nguoi-viet-tieu-thu-09-1kg-thuoc-bvtvnam-d223506.html

https://vtv.vn/vtv8/tieu-diem-phong-tranh-phoi-nhiem-thuoc-bao-ve-thuc-vat-20180803065359.htm

https://sokhcn.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/sokhvcnlibrary/siteofkhohocvacongnghe/tintucsukien/hoatdongcuaso/thuocbvthucvatanhhuongsuckhoe

https://thanhnien.vn/thu-hoi-lo-gao-st25-tai-bi-co-du-luong-thuoc-tru-sau-vuot-nguong-post1393168.html

https://nongnghiep.vn/lo-gao-st25-xuat-eu-co-du-luong-hoa-chat-vuot-nguong-cho-phep-d305595.html

https://thanhnien.vn/thu-hoi-lo-gao-st25-tai-bi-co-du-luong-thuoc-tru-sau-vuot-nguong-post1393168.html#:~:text=Th%C3%B4ng%20tin%20t%E1%BB%AB%20V%C4%83n%20ph%C3%B2ng,l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20thu%E1%BB%91c%20b%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87%20th%E1%BB%B1c

https://www.phunuonline.com.vn/lo-gao-st25-tu-viet-nam-bi-thu-hoi-o-chau-au-vi-hoa-chat-ton-du-a1448862.html

CÁC DOANH NGHIỆP Ở AN GIANG ĐẦU TƯ HỖ TRỢ LIÊN KẾT SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ LÚA GẠO BỀN VỮNG VÀ HỮU CƠ

 

      Trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường bình đẳng giới và đầu tư kinh doanh nông nghiệp có trách nhiệm ở Đông Nam Á, (Graisea 2.0)”, thuộc tổ chức Oxfam đã tổ chức tham quan mô hình liên kết, sản xuất, chế biến lúa hữu cơ tại Công ty TNHH MTV Trịnh Văn Phú, ngày 7/6/2022.  Hoạt động diền ra thành công tốt đẹp với sự có mặt của đại diện Trung tâm Kỹ thuật Dịch vụ Nông nghiệp An Giang, đại diện các cơ quan như dự án Graisea 2, Viện Chính sách Nông nghiệp, Viện AOI và các HTX trong tỉnh An Giang và Công ty Trịnh Văn Phú.

     Trong buổi sáng, các đại biểu tập trung đông đủ tại nhà máy của công ty. Tại đây, Ông Lâm Thành Kiêt đại diện công ty đã chia sẻ thông tin phấn khởi về dự án đầu tư nhà máy với công suất lớn, kho dự trữ lương thực đảm bảo an ninh lương thực thuộc DA của chính phủ. Công ty quan tâm đầu tư xây dựng mô hình liên kết với nông dân sản xuất lúa hữu cơ trên nhiều tỉnh ĐBSCL. Về giá cả, đảm bảo mua giá cao khi bà con nông dân tham gia mô hình đạt chứng nhận hữu cơ quốc tế (EU, USDA, JAS, Úc…). Ngoài ra, khi tham gia mô hình sản xuất theo hữu cơ, bà con vẫn được đảm bảo trợ giá trong thời gian xây dựng mô hình. Doanh nghiệp cũng được các Tổ chức quản lý các cấp khuyến khích và hỗ trợ bà con nông dân cải tạo đất hướng đến sản xuất hữu cơ, mang đến một giá trị hoàn toàn mới cho nông sàn, đó là tạo ra “SẢN PHẨM HỮU CƠ”. Khi thực hiện được điều đó, thì Nông nghiệp Việt Nam mới thực sự tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường Quốc tế

f4261d831cd3df8d86c2eb6ab111b041731f2a50d5110cb40de4ceba97f5ad9c6ce76db7aee9f7a6

Hình 1,2,3,4. Đại diện Viện AOI trao đổi với đại biểu dự Hội thảo và cùng các Đại biểu tham quan tại CTY Trịnh Văn Phú.

      Hội thảo ký kết mô hình hợp tác công tư (PPC) tại An Giang.

      Hội thảo diền ra vào đầu giờ chiều ngày 7/6/2022, với sự có mặt của đại diện Sở nông nghiệp An Giang, nhiều Doanh nghiệp xuất nhập khẩu, HTX trong và ngoài tỉnh. Hội thảo tập trung trình bày những hiệu quả, những đóng góp mà Dự án Graisea đã thực hiện trước đó, xây dựng nhiều mô hình bền vững và đạt chuẩn hữu cơ, tạo công ăn việc làm cho bà con nông dân, nâng cao vai trò của Hội phụ nữ, tạo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh. Những hoạt động DA thực hiện được hết sức ý nghĩa, góp phần nâng cao vai trò liên kết trong sản xuất bền vững và hữu cơ.

     Qua hội thảo, các Doanh nghiệp đã có những giải đáp thắc mắc một cách sâu sắc, thân tình với các bên loeen quan, các HTX và nông dân. Những nỗi trăn trở khó khăn trong liên kết của các bên, từ đó có tiếng nói chung, cùng nhau xây dựng mối liên kết bền vững, không phải chỉ 1 vụ, 1 năm, mà là bền vững về lâu dài.

     Như là những người bạn đường, luôn luôn đồng hành với người sản xuất và Doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất đến xây dựng sản phẩm đạt chứng nhận. Chúng tôi luôn hy vọng ngày càng có thêm các sản phẩm hữu cơ mang tên Việt Nam sẽ được chấp nhận khắp thế giới và đặc biệt là giá trị cốt lõi mà các sản phẩm hữu cơ mang lại đó là “Hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường”.

 9097a314a244611a385510511cdf1d8fded1879e

Hình 5,6. Hội thảo ký kết mô hình hợp tác công tư (PPC) tại An Giang

     Xin chân thành cảm ơn Tổ chức Oxfarm và Trung tâm KTDV Nông nghiệp An Giang đã tổ chức một buổi Hội thảo thành công tốt đẹp.

Nhóm Admin Viện AOI

Liên hệ

Địa chỉ: 54/17 Bùi Quang Là, P.12, Quận Gò Vấp, TP. HCM.

Điện thoại: (+84) 989 596 877

Email: vienhuucoachau@gmail.com

 

MAP

Facebook